QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA - GIÁO TRÌNH - NGÔ HẢI NINH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA














 

LỜI NÓI ĐẦU

Văn hoá Việt Nam là toàn bộ sáng tạo của con người tích luỹ lại trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hoá và hệ ứng xử văn hoá cộng đồng. Nền văn hoá Việt Nam được bồi đắp bằng tâm hồn và trí tuệ của biết bao thế hệ, tự hào về truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, quật cường, tinh thần cao cả, luôn hướng tới chân, thiện, mỹ. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn đề vừa có ý nghĩa cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Quản lý nhà nước về văn hoá là một bộ phận nói chung của quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội hoá văn hoá thì vai trò của Nhà nước lại không thể thiếu được, nhằm phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế những mặt trái của thị trường, định hướng nền văn hoá được bảo vệ, giữ gìn, phát triển, phù hợp với mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội. Góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, đảm bảo vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế -xã hội và hội nhập quốc tế” được xác định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước về văn hoá cho sinh viên ngành quản lý văn hoá, cũng như các chuyên ngành khác như: chuyên ngành quản lý văn hoá du lịch, tổ chức sự kiện văn hoá, quản lý di sản,… chúng tôi tập trung biên soạn giáo trình Quản lý nhà nước về văn hoá. Với cách tiếp cận là đặt các lĩnh vực văn hoá trong cái nhìn tổng thể để từ đó người học có thể nắm rõ được những đặc trưng cơ bản quản lý văn hoá trong từng lĩnh vực cụ thể. Người đọc có thể hiểu được tính chất “thống nhất trong đa dạng” của văn hoá. Đồng thời, người học cũng có thể vận dụng những kiến thức lý luận áp dụng vào thực tiễn công việc cụ thể sau này, từ đó giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn đối với công tác quản lý nhà nước về văn hoá, góp phần quan trọng phát triển đất nước.

Tài liệu giảng dạy được viết dưới hình thức các chương, trong đó có sự kết hợp chặt chẽ lý luận, đường lối, chính sách văn hoá của Nhà nước với những vấn đề thực tiễn trong hoạt động quản lý văn hoá. Nội dung học liệu được trình bày theo hệ thống sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung quản lý nhà nước về văn hoá

Chương 2: Quản lý nhà nước về văn học nghệ thuật

Chương 3: Quản lý nhà nước về xuất bản, báo chí, quảng cáo

Chương 4: Quản lý nhà nước về di sản văn hoá, thiết chế thư viện, bảo tàng Chương 5: Quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

Chương 6: Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá

Chương 7: Phương hướng và giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về văn hoá

Tài liệu giảng dạy là kết quả của sự kế thừa, tổng hợp, phát triển, cập nhật thành tựu mới trong nghiên cứu lý luận, thực tiễn về quản lý nhà nước về văn hoá hiện nay. Về phía sinh viên cần chủ động tích cực nghiên cứu giáo trình và các sách tham khảo liên quan mà giảng viên giới thiệu để có cách tiếp cận toàn diện, sâu sắc và chính xác nhất về những vấn đề kiến thức được giới thiệu trong học liệu. Sinh viên cần tích cực thảo luận theo nhóm đối với những chủ đề thảo luận trong tài liệu dưới sự hướng dẫn của giảng viên.

Nhân dịp tài liệu giảng dạy được xuất bản, nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những ý kiến nhận xét, góp ý quý báu của nhiều chuyên gia. Tuy nhiên, đây là một chủ đề nghiên cứu rộng và phức tạp, có nhiều vấn đề lý luận mà trong phạm vi một giáo trình nghiên cứu không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của các nhà nghiên cứu và độc giả nói chung để công trình được hoàn thiện hơn.

Thay mặt nhóm tác giả

TS. NGÔ HẢI NINH


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA


1.1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN

1.1.1. Khái niệm văn hóa

Sự phát triển của loài người gắn liền với văn hoá ngay từ những bước đi lịch sử đầu tiên của mình. Văn hoá là một từ xuất hiện khá sớm trong ngôn ngữ của các dân tộc văn minh và phát triển trong thời cổ đại như: Ai Cập, Hi Lạp, Trung Hoa, Ấn Độ.v.v.

Trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam, từ lâu các khái niệm: văn hiến, văn vật, văn minh đã xuất hiện, còn khái niệm văn hoá thì xuất hiện vào đầu thế kỉ XX.

Theo thống kê của UNESCO, đến nay có gần 500 khái niệm khác nhau về văn hoá. Các khái niệm này đều xuất phát từ những cơ sở khoa học khác nhau, bổ sung cho nhau và đều nêu lên được những nét đặc trưng của văn hoá.

Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) năm 2002, đã đưa ra định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học nghệ thuật cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”;

Định nghĩa về văn hoá của Hồ Chí Minh, 1943: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm mục thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”;

Theo tác giả Trần Ngọc Thêm thì: “Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [1,tr.10].

Như vậy, văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hoá là cội nguồn trực tiếp của sự phát triển. Văn hoá không xét ở mức độ cao thấp mà xét ở góc độ khác biệt.

Hoạt động văn hóa rất đa đạng, phong phú như hoạt động về giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật. Văn hóa có tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Xét về khía cạnh xã hội, con người là sản phẩm của văn hóa đồng thời con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa. Điều kiện sinh hoạt vật chất của các giai cấp khác nhau dẫn đến tư tưởng, tình cảm khác nhau. Văn hóa chịu sự chi phối và quy định của hệ tư tưởng, mặt khác là một yếu tố tinh thần nó phản ánh và chịu sự quy định của phương thức sản xuất vật chất cho nên văn hóa có tính giai cấp.

Văn hóa là sự phản ánh rõ nét nhất bản sắc của mỗi dân tộc. Vươn tới sự tốt đẹp là nét chung của văn hóa nhân loại và đó là cốt lõi để tạo nên sự phát triển của xã hội loài người, là bản chất đích thực của văn hóa, đây chính là cơ sở có thể toàn cầu hóa. Giải quyết mối quan hệ giữa tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại của văn hóa là trách nhiệm của Nhà nước và của toàn xã hội.

1.1.2. Khái niệm quản lý

Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển đều phải tuân thủ và chịu một sự quản lý nào đó. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung, kết quả chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Trình độ xã hội hoá ngày càng cao thì yêu cầu quản lý càng cao và vai trò của quản lý càng tăng lên. Quản lý là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, ở mỗi lĩnh vực hoạt động từ đó có thể đưa ra những khái niệm khác nhau về quản lý.

Theo Hán Việt từ điển cho rằng: ”Quản lý là sự trông nom, coi sóc, quản thúc, bó buộc ai đó theo một khuân mẫu, quy định, nguyên tắc, luật pháp đã đề ra”. Quản lý là sự kết hợp của ba phương diện: Một là, thông qua tập thể để thúc đẩy tính tích cực của cá nhân; hai là, điều hoà quan hệ giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên; ba là, tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ hợp tác tạo ra giá trị lớn hơn gía trị cá nhân- giá trị tập thể. Trong hoạt động quản lý, phải có ít nhất một chủ thể quản lý (cá nhân hay cơ quan) và ít nhất một đối tượng quản lý (con người – một cá nhân hay nhiều người hoặc một bộ phận) gián tiếp

 

hay trực tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Hoạt động quản lý nhằm đạt được một mục đích nhất định. Các yếu tố khác tạo nên môi trường của hệ thống, chính là khách thể của hoạt động quản lý.

Tóm lại chúng ta có thể hiểu khái niệm về hoạt động quản lý như sau: Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng và khách thể quản lý bằng hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện môi trường không ngừng biến động [2].

1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về văn hoá

Tiếp cận từ khái niệm quản lý, có thể hiểu quản lý nhà nước về văn hoá chính là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành của nhà nước, mục đích là làm cho văn hoá phát triển theo hướng vì sự phát triển bền vững của con người và xã hội. Vậy có thể phát biểu khái niệm quản lý nhà nước về văn hoá là: Quản lý nhà nước về văn hoá là sự quản lý của nhà nước đối với toàn bộ hoạt động văn hoá của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua hiến pháp, pháp luật và cơ chế chính sách nhằm đảm bảo sự phát triển của nền văn hoá dân tộc.

Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về văn hoá ở nước ta được thực hiện thông qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: Cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước về văn hoá được thể hiện trong hoạt động quản lý có tính chất nhà nước về văn hoá nhằm điều hành các hoạt động văn hoá, được thể hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành pháp (Chính phủ, Bộ VHTT&DL; UBND cấp tỉnh; Sở VHTT&DL; UBND cấp huyện, Phòng VH&TT cấp huyện, UBND cấp xã).

Quản lý văn hoá là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương thức của chủ thể quản lý (các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hoá) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn (bảo đảm văn hoá là nền tàng tinh thần của xã hội, nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện chất lượng sống của người dân).

Theo cuốn sách “Lược sử quản lý văn hoá ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Sơn Cường thì: “Quản lý văn hoá là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành cho văn hoá phát triển không ngừng theo hướng có ích cho con người, giúp cho xã hội loài người không ngừng đi lên”[3,tr.28].

Theo tác giả Lê Hồng Lý trong giáo trình Quản lý di sản văn hoá với phát triển du lịch cũng đưa ra khái niệm sau: “Quản lý văn hoá là quá trình xây dựng

 

đường lối chính sách và tổ chức hoạt động nhằm bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị của văn hoá Việt Nam; đồng thời tiếp thu những tinh hoa của văn hoá nhân loại, làm giàu cho văn hoá dân tộc ”[4,tr.55].

Hoạt động văn hoá là một dạng hoạt động xã hội quan trọng, tất yếu phải có sự quản lý của nhà nước, chính vì thế quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá là tất yếu khách quan. Do hoạt động văn hoá là một hoạt động sáng tạo, là hoạt động xã hội mang tính đặc thù. Bởi thứ nhất, hoạt động văn hoá là một hoạt động sáng tạo, có thể làm ra các sản phẩm văn hoá mang giá trị lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống, con người. Thứ hai, hoạt động văn hoá còn là hoạt động tư tưởng, có khả năng gây hiệu ứng (tốt hoặc xấu) trong xã hội. Thứ ba, hoạt động văn hoá là hoạt động kinh tế vừa là động lực, vừa là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Chính vì tính đa năng của hoạt động văn hoá, nên quản lý trên lĩnh vực văn hoá mang tính đặc thù. Tính đặc thù của quản lý văn hoá không những thể hiện trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống văn hoá mà còn thể hiện ở công tác quản lý nhà nước về văn hoá ở các cấp từ vĩ mô đến đơn vị cơ sở.

Hơn bất kỳ lĩnh vực nào, lĩnh vực văn hoá là lĩnh vực yêu cầu có sự lãnh đạo và quản lý nhà nước, vì vậy cần phải xác định rõ đối tượng thuộc phạm vi văn hoá mà nhà nước cần phải quản lý. Nhà nước có thể quản lý được và cần quản lý là đời sống văn hoá, hoạt động văn hoá. Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng trực tiếp quản lý những công trình văn hoá (công trình lịch sử văn hoá cũng như công trình nghệ thuật) và những cơ sở trực tiếp phục vụ nhu cầu văn hoá của nhân dân. Nhà nước là đại diện nhân dân để đảm bảo các quyền có trong hiến pháp của công dân về văn hoá, điều tiết sự hài hoà của cơ cấu văn hoá, lợi ích văn hoá của nhóm xã hội, các yêu cầu phát triển và thoả mãn nhu cầu văn hoá của toàn xã hội trước các mâu thuẫn, nghịch lý nảy sinh từ sự vận động, phát triển xã hội. Con người là chủ thể sáng tạo văn hoá, là người hưởng thụ văn hoá. Hoạt động văn hoá là một hoạt động phức tạp diễn ra trên bình diện rộng, trong tất cả các hoạt động xã hội. Vì thế, quản lý nhà nước về văn hoá thực chất là quản lý con người tham gia các hoạt động văn hoá để thực hiện chức năng và nhiệm vụ đặt ra cho quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá.

Khái niệm Quản lý nhà nước về văn hoá có thể được phát biểu như sau:

“Quản lý Nhà nước về văn hóa ở đây được hiểu là hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính Nhà nước từ trung ương đến địa phương đối với lĩnh vực văn hóa, là hoạt động thực thi quan điểm, đường lối văn hóa của Đảng và các văn bản pháp luật về lĩnh vực này do cơ quan lập pháp ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực văn hóa. Đồng thời, bằng việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp

 

quy, các cơ quan hành chính Nhà nước từ trung ương đến địa phương tác động các tổ chức và điều chỉnh trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con người nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ quản lý hoạt động của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.” [5, tr5].

1.2. NỘI DUNG, NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HOÁ

1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về văn hoá

Quản lý văn hoá là quản lý toàn bộ nền văn hoá từ vĩ mô đến vi mô. Quản lý đảm bảo cơ bản trên bình diện tổng thể các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và thiết chế văn hoá, tạo môi trường lành mạnh trong quá trình sáng tạo, lưu giữ, bảo quản, dịch vụ, truyền bá, tiếp nhận và thưởng thức, đánh giá các quá trình văn hoá. Một số nội dung quản lý về văn hoá là: Xây dựng thể chế, thực hiện các chính sách về văn hoá, đầu tư tài chính cho văn hoá và kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá.

* Đối với việc xây dựng thể chế về quản lý văn hoá:

Để quản lý tốt hoạt động văn hoá trong quá trình xã hội hoá văn hoá, Nhà nước phải chú trọng xây dựng thể chế quản lý văn hoá; Hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách về văn hoá, nghệ thuật một cách toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực của đời sống văn hoá phù hợp với đường lối của Đảng, Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Thể chế quản lý văn hoá phải đảm bảo các chuẩn mực về luật pháp và chuẩn mực về phong tục, tập quán dân tộc.

Đại hội Đảng lần thứ XI nhấn mạnh: “Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững”.

Để tạo điều kiện cho văn hoá phát triển, Nhà nước đã ban hành nhiều luật, văn bản luật về tổ chức bộ máy quản lý về văn hoá; Luật Báo chí (2016); Luật xuất bản (2012), Luật Di sản văn hoá (2013); Luật Sở hữu trí tuệ (2019); Luật điện ảnh (2020), Luật quảng cáo (2018).v.v. Các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hoá, đặc biệt có ý nghĩa khi nước ta đang tiến hành chủ trương xã hội hoá các hoạt động văn hoá trong nền kinh tế thị trường. Các hoạt động văn hoá cần được quản lý trên cơ sở luật và các văn bản pháp quy đã được ban hành.

 

Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phải phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương. Do đó cần chú trọng xây dựng các quy ước, dùng quy ước để quản lý đời sống văn hoá ở cơ sở. Đối với các hoạt động lễ hội, hôn nhân, tang ma,…cần quản lý bằng các quy ước; cũng như cần có quy ước về xây dựng gia đình văn hoá, quy ước xây dựng làng văn hoá, khu phố văn hoá…


* Thực hiện các chính sách về văn hoá

Chính sách về văn hoá thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển văn hoá. Chính sách về văn hoá có ý nghĩa rất to lớn, giúp định hướng, hỗ trợ, khuyến khích phát triển văn hoá trong nền kinh tế thị trường.

Chính sách về văn hoá là thể chế hoá các quan điểm, đường lối phát triển văn hoá, nhằm tác động lên các nhóm cộng đồng chính trị và cộng đồng dân cư để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển văn hoá.

Các chính sách văn hoá đòi hỏi phải đáp ứng được mối quan tâm của cả các nhóm cộng đồng dân cư, phân định rõ các mục tiêu và điều chỉnh các hướng ưu tiên. Chính sách văn hoá cần tới sự tăng cường hợp tác với các cơ quan công quyền ở mọi cấp, đặc biệt là với các cơ quan địa phương. Các tổ chức tư nhân và xã hội để vạch kế hoạch hành động thực hiện các chương trình, dự án văn hoá, tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu văn hoá của đông đảo quần chúng nhân dân.


Mục tiêu của chính sách văn hoá nhằm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển văn hoá, phát triển nền văn hoá dân tộc, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả quản lý, đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá, thông tin, hình thành thị trường văn hoá lành mạnh.


Một số nội dung trong Chiến lược phát triển văn hoá Việt Nam phù hợp với thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới:


(1). Xây dựng con người toàn diện, có đủ phẩm chất về tư tưởng, đạo đức, lối sống và nhân cách văn hoá đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.


(2). Xây dựng đời sống văn hoá và môi trường văn hoá: là một nhiệm vụ quan trọng, có quan hệ khăng khít với việc xây dựng con người phát triển toàn diện.


(3). Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật.

 

(4). Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc.


(5).Phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo và khoa học – công nghệ


(6). Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.


(7). Bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số.


(8).Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.


(9). Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá


(10). Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế.


* Đầu tư tài chính cho văn hoá


Ở tất cả các nước, bất luận là nước giàu hay nghèo, có chế độ xã hội khác nhau, nhà nước đều coi việc đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho sự phát triển, dầu tư cho con người. Tăng đầu tư cho phát triển văn hoá đang là xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới hiện nay. Cơ cấu ngân sách Nhà nước đầu tư cho phát triển văn hoá bao gồm: Ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục; Ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học, công nghệ; Ngân sách nhà nước cho phát triển văn hoá, nghệ thuật; Ngân sách nhà nước cho phát triển phát thanh, truyền hình, báo chí…; Ngân sách nhà nước cho các hoạt động thể dục- thể thao… Xác định các mô hình hoạt động thuộc sự quản lý của ngành văn hoá là một căn cứ để đầu tư ngân sách nhà nước cho văn hoá. Cần xác định những thể loại hoạt động văn hoá nào có thể hoạt động trên cơ sở thương mại, loại nào không tự thích ứng được hoặc chỉ thích ứng một phần. Mức độ không thích ứng này chính là một trong những căn cứ để Nhà nước đầu tư, hỗ trợ tài chính.


Các hoạt động văn hoá sẽ được phân định theo các mức độ thích ứng với co chế thị trường. Có thể chia các hoạt động văn hoá thành ba nhóm sau: sự nghiệp, sự nghiệp có thu và kinh doanh. Tương ứng với ba nhóm này Nhà nước có cơ chế đầu tư tài chính thích hợp.


Nguồn đầu tư cho phát triển văn hoá được triển khai theo các hướng sau: Nguồn đầu tư từ phía Nhà nước, từ các tổ chức kinh tế-xã hội và tư nhân. Quan điểm bao cấp toàn bộ cho các hoạt động văn hoá cũng như quan điểm “thả nổi” văn hoá cho thị trường đều là các quan điểm sai lầm, có hại cho sự nghiệp phát triển văn hoá.

 

* Kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá


Tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động văn hoá là nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước, đặc biệt là hoạt động của các cơ quan kiểm tra, thanh tra. Văn hoá có vai trò rất quan trọng việc định hướng phát triển của mỗi dân tộc, hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân nên Nhà nước không thể buông lỏng việc kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá. Tình trạng văn hoá phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển mạnh trong những năm qua lại càng nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đối với các hoạt động văn hoá.


Phương châm chỉ đạo đối với việc đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá là phòng ngừa ngăn chặn hơn là việc để sự việc xảy ra rồi mới xử lý. Đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá cần triển khai theo ba hướng. Hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp quy làm cơ sở pháp lý cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ văn hoá tự điều chỉnh hành vi cũng như điều chỉnh hành vi từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát về văn hoá từ Trung Ương đến cơ sở. Việc củng cố và kiện toàn này bao gồm cả ba khía cạnh: số lượng, chất lượng và trang bị kỹ thuật cho công tác kiểm tra, giám sát. Hiện nay đội ngũ này còn thiếu nhiều về số lượng, yếu về trình độ và trang bị kỹ thuật lạc hậu. Tổ chức và sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá cũng như các đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ văn hoá, đặc biệt đối với các đơn vị giữ vai trò chủ đạo do Nhà nước quản lý.


Đối với ngành văn hóa ở nước ta hiện nay, hoạt động quản lý văn hóa được tiến hành căn cứ vào các mảng cơ bản như: Lĩnh vực thuộc tổ chức bộ máy quản lý văn hóa, quản lý nhà nước về văn hóa nghệ thuật, về văn hóa truyền thông, về văn hóa xã hội, di sản văn hóa, xuất nhập khẩu văn hóa, công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý công tác đào tạo.

1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hoá

Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động Nhà nước trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng.

Đảng lãnh đạo đề ra đường lối, chính sách, chiến lược, xác định các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ và các giải pháp lớn để định hướng cho sự phát triển của nền văn hoá thông qua Nghị quyết của Đảng, thông qua công tác

 

tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng. Đảng không làm thay Nhà nước. Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, thể chế hoá các quan điểm của Đảng thông qua hệ thống: Hiến pháp, pháp luật, thông qua thể chế, thiết chế hoạt động quản lý. Mặt khác, phải phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị, xã hội, các hội sáng tạo, các cộng đồng dân cư trong việc thực hiện nhiệm vụ văn hoá.

Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, chỉ đạo mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Yêu cầu nguyên tắc này là: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền dân chủ. Nhà nước phải nắm quyền thống nhất quản lý, đồng thời giao quyền và trách nhiệm cho địa phương. Tập trung và dân chủ là một thể thống nhất không đối lập nhau, không hạn chế nhau (tập trung trên tinh thần dân chủ). Trên cơ sở nâng cao dân trí cho nhân dân; xây dựng Chính phủ thông minh, Chính phủ số và một nhà nước hiện đại để đảm bảo vai trò quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội một cách hiệu quả.

Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ. Nhà nước là một thể thống nhất, bộ máy nhà nước tổ chức hoạt động theo các cấp hành chính nhà nước và thực hiện quy định cấp dưới phục tùng cấp trên. Địa phương phải phục tùng Trung Ương. Các đơn vị văn hoá ở địa phương vừa phải chịu sự quản lý của ngành, vừa chịu sự quản lý về lãnh thổ địa phương. Hệ thống hành chính chia làm bốn cấp: Trung ương (Quốc hội; Chính phủ); Tỉnh/ Thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện và cấp xã.

Nguyên tắc phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về văn hoá và chức năng quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực văn hoá. Công tác quản lý nhà nước tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây: Xác định chiến lược đầu tư cơ sở hạ tầng và khu vực trọng yếu của nền văn hoá, xây dựng hệ thống thiết chế và thể chế để hoạt động văn hoá. Các doanh nghiệp hoạt động văn hoá theo cơ chế thị trường và theo nguyên tắc quản lý kinh tế nhưng phải chú ý tới tính đặc thù và các lĩnh vực văn hoá để điều tiết cụ thể, tránh đồng nhất quản lý kinh tế với quản lý văn hoá. Nhà nước là chủ thể quản lý các doanh nghiệp trên lĩnh vực văn hoá trước hết phải tạo môi trường pháp lý để doanh nghiệp phát triển. Nhà nước đảm bảo quyền tự do kinh doanh trên cơ sở tôn trọng hiến pháp và pháp luật.

Nguyên tắc công khai: Nguyên tắc này đòi hỏi các tổ chức hoạt động quản lý của nhà nước phải công khai cho nhân dân biết trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các cơ sở làm việc về các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý và các chế độ chính sách đối với nhân dân. Các cơ quan giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp phải chú ý đến dư

 

luận xã hội để kịp thời điều chỉnh các quyết định về quản lý cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.

1.2.3. Phương thức quản lý nhà nước về văn hoá

Về phương thức quản lý văn hoá: Đây là tổng thể các cách thức, phương pháp nhằm tác động có chủ đích, có thể có được của Nhà nước, nhằm tổ chức điều hành các hoạt động văn hoá hướng tới thực hiện những mục tiêu nhất định. Quá trình quản lý văn hoá là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc đó được vận dụng thể hiện theo những phương pháp nhất định. Phương pháp quản lý văn hoá là biểu hiện cụ thể mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với đối tượng và khách thể quản lý. Vì vậy phương pháp quản lý cũng đa dạng và sinh động, trong quá trình quản lý phải căn cứ vào mục tiêu để lựa chọn phương pháp và điều chỉnh phối hợp các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất. Nhà nước có thể sử dụng ba phương pháp dưới đây trong quản lý nhà nước về văn hoá:

Thứ nhất, Nhà nước quản lý văn hóa bằng pháp luật thực sự là công cụ hữu hiệu trong quản lý Nhà nước về văn hóa và trong công tác tư tưởng. Vì vậy, nó phải được xây dựng và ban hành sao cho hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động văn hóa phát huy được tác dụng của văn hóa tới sự hình thành nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, chế ước những tiêu cực thị trường văn hóa tạo ra, làm cơ sở pháp lý cho chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa.

Trên bình diện quốc gia, nước nào cũng có những điều luật về văn hóa, hoặc là ghi trong bộ luật khác hoặc là trong bộ luật chuyên về văn hóa. Ở Việt Nam, Điều 60 – Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: “(1). Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; (2). Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; (3). Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc xây dựng con người Việt Nam có sức khoẻ, văn hoá, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân” [7,tr.16].

Thứ hai, Nhà nước quản lý văn hóa bằng các chính sách (chương trình, kế hoạch quốc gia) về phát triển văn hóa. Chính sách văn hóa được hình thành như một chỉnh thể trong quá trình tác động lẫn nhau của ba nhóm cộng đồng: (1).Cộng đồng văn hóa: các nghệ sĩ, nghệ nhân, nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà hoạt động văn

 

hóa, nhà sáng tạo nghệ thuật, người làm phim, người xuất bản…(2). Cộng đồng công chúng: công dân và tập thể, công chúng thực hiện và công chúng tiềm năng. (3). Cộng đồng chính trị: các cơ quan Đảng, cơ quan chính quyền ở trung ương và địa phương. Có thể nói, vai trò của chính sách trong hoạt động quản lý Nhà nước về văn hóa là rất quan trọng. Tuy nhiên, chính sách văn hóa không thể thay thế pháp luật. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật sẽ góp phần vào việc lặp lại trật tự kỷ cương trong tình hình văn hóa xã hội đang có nhiều lộn xộn cần được khẩn trương giải quyết ngay hiện nay.

Thứ ba, Nhà nước quản lý văn hóa bằng đầu tư tài chính. Cơ cấu ngân sách Nhà nước tổng thể về văn hóa thường gồm: phần ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục, chi cho nghệ thuật và những công việc văn hóa, chi cho thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình và chi ở các lĩnh vực khác (tôn giáo, du lịch, thể dục thể thao...).

Thứ tư, Nhà nước quản lý văn hóa bằng việc củng cố tổ chức, tăng cường đào tạo cán bộ, đổi mới hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa. Đây là phương thức quan trọng để đổi mới, nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp văn hóa và trong công cuộc chấn hưng đất nước.

Thứ năm, Nhà nước quản lý văn hóa bằng công tác kiểm tra, thanh tra của Nhà nước. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của công tác quản lý Nhà nước về văn hóa. Trong lĩnh vực công tác này, hoạt động của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra có vai trò đặc biệt bởi vì văn hóa có mối quan hệ trực tiếp với chính trị, nó tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Trong xu hướng xã hội văn hóa, công tác kiểm tra kiểm soát càng phải được thực hiện nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp hoạt động một cách chặt chẽ với các bộ ngành khác, như vậy mới có khả năng thực hiện chức năng và nhiệm vụ đặt ra.

Để thực hiện chức năng quản lý văn hoá, các chủ thể quản lý phải vận dụng tổng hợp phương thức và căn cứ vào điều kiện thực tiễn cụ thể, yêu cầu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển để nhấn mạnh phương thức này hay phương thức khác.

1.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HOÁ

1.3.1. Quản lý nhà nước về văn hóa từ trước năm 1975

Trong lịch sử quá trình dựng nước và giữ nước trước kia của cha ông ta, tuy chưa có thuật ngữ “quản lý văn hóa” nhưng thái độ ứng xử với văn hóa của cha ông ta rất trùng hợp với khái niệm quản lý văn hóa hiện nay. Ông cha ta đã coi văn hóa như một phương tiện hiện hữu để quản lý đất nước nên đã giữ gìn nó,

 

bảo lưu nó, tạo cho nó tồn tại và phát triển trong sự biến động không ngừng của quá trình giao lưu văn hóa. Khái niệm “quản lý văn hóa” của cha ông ta trước kia được hiểu là sự giáo dục nhân cách, quản lý lòng người trong suy nghĩ và hành động của họ nhằm vươn tới một cuộc sống đẹp hơn. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, ngay từ khi ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ba mặt trận quan trọng của cách mạng nước ta là chính trị, kinh tế và văn hoá. Đặc biệt, Đề cương về cách mạng văn hoá Việt Nam (năm 1943) của Đảng xác định xây dựng nền văn hoá Việt Nam (bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật) do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hoá tân dân chủ thế giới; khẳng định ba nguyên tắc vận động quần chúng xây dựng văn hoá là: “”Dân tộc hoá””; “Đại chúng hoá”; “Khoa học hoá”; Tính chất của nền văn hoá mới Việt Nam được xác định là “”dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung”.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong đó có hai nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá: Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt. Hai là, phải giáo dục tinh thần cho nhân dân. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.

Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất (1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một chân lý “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”…”Phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng  phải  coi  trọng  ngang  nhau:  Chính  trị,  kinh  tế,  xã  hội,  văn  hoá”

Tháng 3 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu “Đời sống mới” giải thích những vấn đề thiết thực trong đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về Văn hoá. Tháng 7 năm 1948, tại Việt Bắc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo tổ chức Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai. Thay mặt Trung ương, Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”. Báo cáo hệ thống hoá, cụ thể hoá và phát triển các quan điểm, nguyên tắc, phương châm của Đề cương văn hoá năm 1943 của Đảng, có giá trị như là Cương lĩnh văn hoá của Đảng thời kỳ kháng chiến, kiến quốc.

Nhân dịp Triển lãm hội hoạ (năm 1951), trong thư gửi các hoạ sĩ, Chủ tịch Hồ Chsi Minh khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Tại Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng (1960), Đảng ta đã xác định văn hoá, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với

 

cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh , “Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức ”và“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa; muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muỗn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành một số văn bản pháp luật làm cơ sở cho công tác quản lý Nhà nước về văn hóa.

1.3.2. Quản lý nhà nước từ năm 1975 đến nay

Sự nghiệp quản lý văn hóa được gắn với việc xây dựng con người mới có tinh thần kiến thiết đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân được đề ra nên hầu hết như toàn bộ quá trình văn hóa trong xã hội từ khâu sản xuất đến phân phối, tiêu dùng và bảo quản đều do Nhà nước đảm nhận tạo ra đời sống văn hóa ngày một tốt đẹp hơn cho nhân dân trên quy mô rộng cả ở đô thị và nông thôn; hướng sự thống nhất tư tưởng; tuyên truyền kịp thời các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng; khẳng định lối sống có chỉ đạo qua các nghi thức, chuẩn mực trong xã hội như cưới hỏi, tang ma, lễ tết.v.v. Tuy nhiên, bên cạnh đó, văn hóa cũng có các nhược điểm như: tính khuôn mẫu, định sẵn của văn hóa do Nhà nước chỉ đạo, thuận tiện cho sự điều hành nhưng lại áp đặt từ trên xuống, quá chú trọng đến chức năng giáo dục tư tưởng, tách tư tưởng khỏi tổng thể các tri thức khoa học, nghệ thuật, khỏi các vấn đề thực tiễn hàng ngày, xa rời các nhu cầu đời thường của quần chúng khác nhau về tuổi đời, về nghề nghiệp, về sở thích. Người lao động trở thành đối tượng thụ động trong hưởng thụ văn hóa của Nhà nước, hạn chế khả năng chủ động sáng tạo vốn là bản chất của văn hóa, nguồn tiềm năng của phát triển. Được bao cấp trong nhiều năm, các hoạt động văn hóa ít quan tâm đến tính hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế, văn hóa có xu hướng thoát ly các yêu cầu và nhiệm vụ của phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa bị cào bằng làm mất đi bản sắc phong phú của từng vùng, miền. Chỉ có số ít các văn bản pháp luật ít được ban hành thời kỳ này như: Pháp lệnh số 14- LCT/HĐNN ngày 4 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng Nhà nước về bảo vệ và sử dụng di tích văn hóa lịch sử, danh lam thắng cảnh. Lĩnh vực văn hóa chủ yếu được định hướng thông qua các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết số 36- NQ/TW ngày 4 tháng 2 năm 1981 của Ban bí thư. Nhìn chung, do quan niệm về văn hóa và đặc điểm của văn hóa thời kì bao cấp như đã nêu ở trên mà quản lý Nhà nước về văn hóa thời kì này có các đặc điểm sau:

Là quản lý một lĩnh vực “phi sản xuất”, đặc điểm này không chỉ thể hiện trong phân loại kết cấu ngân sách mà chi phối cả trong việc tổ chức bộ máy quản

 

lý lồng ghép kiêm nhiệm, làm xuất hiện quan niệm văn hóa là phụ, là ăn theo kinh tế.

Đồng nhất quản lý Nhà nước với quản lý sự nghiệp văn hóa do Nhà nước làm cho dân, do đó công tác quản lý văn hóa hầu như không được chú ý.

Cơ chế điều hành quản lý chỉ có một chiều từ trung ương xuống cơ sở, không có mối liên hệ ngược, xơ cứng, giáo điều trong điều hành quản lý.

Hành chính, kinh tế, giáo dục là ba phương pháp chủ yếu của quản lý Nhà nước. Quản lý văn hóa thời bao cấp hầu như chỉ sử dụng phương pháp giáo dục nặng tính hành chính, phương pháp kinh tế không có ý nghĩa trong quản lý văn hóa thời kỳ này.

Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định: ”Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật, xây dựng một nền văn háo, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc”. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội đại biểu toàn quốc Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đề ra, công tác quản lý Nhà nước về văn hóa từng bước đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII năm 1998 với nhận thức văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, dù còn những tồn tại nhất định nhưng chúng ta đã tăng cường đổi mới công tác quản lý Nhà nước về văn hóa theo hướng xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đây là một hướng đi đúng, một xu thế tất yếu của thời đại.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [8,tr.75].

Nền văn hoá tiên tiến là nền văn hoá tiến bộ và nhân văn, dựa trên hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu không ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hoá cập nhật với trình độ chung của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Đó là nền văn hoá thấm nhuần sâu sắc các giá trị nhân văn, dân chủ, tiến bộ và khoa học, có sức lan toả và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển đất nước.

 

Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tại hội nghị lần thứ chín, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, khẳng định: “Xây dựng nèn văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam””.

Đến cuối nhiệm kỳ khoá XII, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW, ngày 04/6/2020 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, nhấn mạnh: “Xây dựng và phát triển văn hoá, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hoá là hồn cốt của dân tộc, là nền tàng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Năm 2021, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định đường lối quản lý nhà nước về văn hoá: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [9,tr.262].

1.3.3. Bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa

Việc xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa ở nước ta được thể chế hóa theo những quy định cơ bản sau:

Thứ nhất, Bộ máy quản lý Nhà nước về lĩnh vực văn hóa được xây dựng nằm trong mối quan hệ tương quan và tương ứng với bộ máy lãnh đạo văn hóa.

Thể chế quy định này được thực hiện thông suốt, quán triệt từ trung ương đến địa phương mặc dù mô hình tổ chức theo quy định này có thể có những trường hợp khác nhau . Ví dụ, ở trung ương, cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa là Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch của Chính phủ tương quan tương ứng với Ban Văn hóa Tư tưởng của Ban chấp hành trung ương Đảng và với Ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội. Ở địa phương, cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa ở cấp tỉnh là Sở Văn hóa, thể thao và du lịch của Ủy ban nhân dân tỉnh: tương ứng với Ban Tuyên giáo của tỉnh ủy, Ban Văn hóa - xã hội của Hội đồng nhân dân tỉnh...

Hình 1.2. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý văn hóa bốn cấp




(1). Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Từ tháng 07 năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2017/NĐ- CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Theo đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục- thể thao và du lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật… Riêng về lĩnh vực quảng cáo, Bộ thống nhất quản lý về quảng cáo trong việc hướng dẫn xây dựng quảng cáo ngoài trời tại địa phương, tổ chức thẩm định sản phẩm quảng cáo theo quy định của pháp luật. Thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động quảng cáo trên các phương tiện (trừ báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm).

Theo Nghị định số 79/2017/NĐ- CP thì Bộ VHTT&DL có các nhiệm vụ sau:

Trình Chính phủ các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội; dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Bộ đã được phê duyệt và các nghị quyết, dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

 

Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn, hàng năm và các chương trình, dự án, công trình quan trọng quốc gia về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.


Trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.


Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia; ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy trình, quy phạm, định mức kinh tế - kỹ thuật trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.


Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế hoạch, các dự án, công trình quan trọng quốc gia đã được ban hành hoặc phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và theo dõi tình hình thi hành pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.


+ Về cơ cấu tổ chức, ngoài Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ và 9 vụ chuyên môn trực thuộc, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch còn bao gồm 7 cục (Cục Di sản văn hoá; Cục Nghệ thuật biểu diễn; Cục Điện ảnh; Cục Bản quyền tác giả; Cục văn hoá cơ sở; Cục Hợp tác quốc tế; Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm); 2 Tổng cục (Thể dục, thể thao; Du lịch) và một số Ban, Viện nghiên cứu, Trung tâm văn hoá khác là các cơ quan cấp dưới tham mưu, phối hợp chặt chẽ theo chức năng quy định [10].

+ Chính quyền địa phương với cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về văn hóa thông tin (Sở VHTT&DL của các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng VH&TT cấp huyện; Ban văn hóa cấp xã) có chức năng quản lý sự nghiệp văn hóa trên địa bàn theo sự phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương.

(2). Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch: Là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh (Quy định tại Thông tư số 08/2021/TT- BVHTTDL ngày 08/09/2021 của Bộ văn hoá thể thao và du lịch: Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở VHTT&DL; Sở VH&TT, Sở du lịch thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Văn hoá và Thông tin thuộc UBND cấp Huyện.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng

 

quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (không bao gồm nội dung quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin); việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.


Đối với các địa phương có Sở Du lịch thì chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về du lịch do Sở Du lịch thực hiện; chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo do Sở Văn hóa và Thể thao thực hiện, cụ thể như sau: (a) Sở Văn hóa và Thể thao là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo (không bao gồm nội dung quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin); việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. (b) Sở Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn [11].


(3). Phòng VH&TT cấp huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện (Quy định tại có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Thông tư số 08/2021/TT - BVHTTDL, ngày 08/9/2021: Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở VHTT&DL; Sở VH&TT, Sở du lịch thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Văn hoá và Thông tin thuộc UBND cấp Huyện). Phòng VH& TT có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp Huyện quản lý nhà nước về: văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của UBND cấp huyện và theo quy định của pháp luật (việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thông tin và truyền thông của Phòng Văn hoá và Thông tin được quy định tại Thông tư của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông)[12].

Thứ hai, Bộ máy quản lý Nhà nước về văn hóa được xây dựng hình thành một lĩnh vực ngành riêng, không cấu tạo chung vào với các lĩnh vực khoa học, giáo dục, tôn giáo, dân tộc.v.v. mặc dù tất cả đều thuộc phạm trù khái niệm văn hóa. Lĩnh vực văn hóa ở đây chủ yếu được sắp xếp gắn với lĩnh vực tuyên truyền

 

giáo dục chính trị tư tưởng - xã hội, do đó phải hình thành nên bộ máy quản lý Nhà nước lĩnh vực ngành riêng mà ở trung ương là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Hiện nay, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch là cơ quan của Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước về văn hóa, thể thao, du lịch trên phạm vi toàn quốc. Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý hoạt động xuất bản, báo chí, quảng cáo trên xuất bản phẩm, báo chí .

Bộ máy quản lý Nhà nước về văn hóa được xây dựng theo hệ thống khép kín ngành từ trung ương đến cơ sở qua bốn cấp. Ở cấp trung ương có Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch là cơ quan của chính phủ chịu trách nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch trên phạm vi toàn quốc. Ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã thì tương ứng có Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, Sở Thông tin và Truyền thông, Phòng Văn hóa Thông tin, Ban Văn hóa xã hội là những cơ quan của ủy ban nhân dân có chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực văn hóa. Tuy nhiên, càng ở cấp dưới địa phương cơ sở thì mô hình tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa có sự biến dạng tùy thuộc vào điều kiện của mỗi địa phương tuy không nhiều.

Bên cạnh bộ máy quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa theo hệ thống quốc gia còn có một bộ máy quản lý hoạt động văn hóa theo hệ thống các lực lượng đặc biệt như: quân đội, công an và các tổ chức đoàn thể. Các bộ máy quản lý lĩnh vực văn hóa này vừa mang tính quản lý Nhà nước vừa mang tính lãnh đạo của Đảng. Cùng với công tác quản lý Nhà nước của Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch, mạng lưới các bộ máy quản lý văn hóa mang tính Nhà nước đã được hình thành trong hệ thống các lực lượng sau:

Trong lực lượng công an (Bộ Công an) thiết lập Cục Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ A83 quản lý an ninh hoạt động tư tưởng trong xã hội. Thể chế tổ chức bộ máy này trong ngành công an đã được xây dựng có hệ thống từ ngành trung ương đến ngành địa phương theo những mô hình tổ chức có thể khác nhau.

Trong lực lượng quân đội (Bộ Quốc phòng) đã thiết lập Cục Chính trị vừa mang tính quản lý Nhà nước, vừa lãnh đạo chính trị, để quản lý lĩnh vực hoạt động văn hóa trong lực lượng quân đội. Thể chế tổ chức bộ máy này trong quân đội đã được xây dựng có hệ thống từ cấp Bộ đến quân khu, quân đoàn, quân chủng, các cấp sư đoàn, tỉnh đội... Tùy ở mỗi cấp mà mô hình tổ chức bộ máy này có thể khác nhau.

Trong các tổ chức đoàn thể (như Tổng liên đoàn lao động, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) cũng đã thiết lập Ban Văn hóa- Tư tưởng, vừa có tính quản lý Nhà nước vừa lãnh đạo chính trị để quản lý lĩnh vực hoạt động văn hóa

 

trong lực lượng đoàn thể mình. Thể chế tổ chức bộ máy này trong các tổ chức đoàn thể đã được xây dựng từ cấp trung ương đến cấp tỉnh, thành phố.

Trong điều kiện đổi mới hiện nay, hệ thống mạng lưới bộ máy quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa phải tăng cường hơn nữa chức năng quản lý Nhà nước của mình. Trước đây,việc quản lý có thể theo phương thức khác nhưng hiện nay cần phải chuyển đổi cơ chế theo cách quản lý Nhà nước. Phạm vi và trách nhiệm quản lý của bộ, của các sở, các cơ quan quản lý mang tính Nhà nước ở các hệ thống khác nhau, tuy có hai nội dung nhưng cần giảm dần những việc trực tiếp quản lý riêng về sự nghiệp hoạt động văn hóa, phải tăng cường dần những loại công việc về quản lý Nhà nước đối với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động văn hóa trên phạm vi địa bàn phụ trách của mình (trong cả nước, từng địa phương, từng lực lượng.v.v).

Để thực hiện thể chế quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, bộ máy quản lý Nhà nước của lĩnh vực này phải thực hiện các công việc chủ yếu sau:

Tiến hành việc xây dựng những văn bản pháp quy, triển khai thực thi các văn bản pháp quy và tổ chức kiểm tra, thanh tra, xử lý những vụ việc vi phạm pháp chế văn hóa trên địa bàn mình phụ trách.

Tiến hành việc xây dựng quy hoạch, sắp xếp hợp lý các thiết chế văn hóa sự nghiệp kể cả của Nhà nước, tập thể, tư nhân hoạt động trên phạm vi địa bàn phụ trách của mình.

Tiến hành việc xây dựng kế hoạch tài chính, kể từ kế hoạch huy động nguồn vốn, kế hoạch phân bố đầu tư, kế hoạch chi, kế hoạch thu, nộp thuế, chế độ thanh tra tài chính đối với toàn bộ lĩnh vực hoạt động văn hóa trên địa bàn mình đảm nhiệm phụ trách.

Tiến hành sắp xếp bộ máy quản lý, hệ thống tổ chức và các chức danh cán bộ, đào tạo và xử lý cán bộ, bổ nhiệm, bãi miễn cán bộ quản lý đối với toàn bộ lĩnh vực hoạt động văn hóa trên địa bàn mình đảm trách.

Tiến hành các công việc về quan hệ quốc tế, đối ngoại, ngoại giao, giao lưu văn hóa với nước ngoài, thu hút đầu tư viện trợ nước ngoài đối với toàn bộ lĩnh vực hoạt động văn hóa thuộc địa bàn của mình phụ trách.

Tiến hành công việc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành văn hóa, xử lý các vụ việc vi phạm pháp chế văn hóa, chủ trì hoặc làm trọng tài xử lý các vi phạm pháp chế có liên quan với ngành khác.

Công tác quản lý của Nhà nước về văn hoá chủ yếu được thực hiện theo quy trình thống nhất đi từ Trung ương đến cơ sở.

 

1.4. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HOÁ TRÊN CÁC LĨNH VỰC

Lĩnh vực văn hóa nói chung bao gồm rất nhiều chuyên ngành, nhiều dạng thiết chế, nhiều loại hình sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa, dự án văn hóa được chuyển tải bằng nhiều kênh, nhiều nguồn truyền thông khác nhau, kể cả trực tiếp từ người này đến người khác và gián tiếp bằng biểu tượng, âm thanh, hình ảnh. Xét về mặt hoạt động văn hóa chủ yếu được thực hiện trên ba phương diện hoạt động sáng tạo văn hóa, hoạt động bảo tồn văn hóa dân tộc, hoạt động giao lưu văn hóa. Tuy nhiên trong quá trình quản lý hoạt động văn hóa khó có thể tách riêng từng phương diện như trên để quản lý. Mọi phương diện hoạt động, mọi loại hình hoạt động của mọi thiết chế và phương tiện truyền tải văn hóa cũng như mọi loại sản phẩm văn hóa làm ra, nhằm mục đích đưa tới địa chỉ tiêu thụ văn hóa, nhằm tạo ra môi trường văn hóa để tuyên truyền giáo dục con người trên từng địa bàn họ sinh sống.

Việc phân chia tách bạch ra từng chuyên ngành hoạt động văn hóa như: thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, phát thanh truyền hình, thông tin cổ động, xuất bản, biểu diễn nghệ thuật.v.v. là cần thiết nhiều hơn cho hoạt động quản lý sự nghiệp nhưng hạn chế quan hệ trực tiếp với nhiệm vụ quản lý Nhà nước. Trong khi đó, đối tượng với lĩnh vực quản lý Nhà nước thì sự phân định thành các thị trường tiêu thụ văn hóa và môi trường diễn ra sự giao lưu văn hóa mà quản lý Nhà nước có nhiệm vụ chi phối và can thiệp chúng là cần thiết. Do vậy, nhiệm vụ và nội dung các lĩnh vực cụ thể của quản lý Nhà nước được chia thành các phạm vi quản lý: Văn hóa nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, văn học, sân khấu điện ảnh); Văn hóa xã hội (lễ hội, phong tục tập quán, câu lạc bộ, công viên chuyên đề, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa, bảo tồn- bảo tàng; Văn hóa thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, thư viện, xuất bản, quảng cáo); Giao lưu hợp tác văn hóa với nước ngoài.

1.4.1. Lĩnh vực văn hóa nghệ thuật

Đối với lĩnh vực văn hóa nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, văn học, sân khấu điện ảnh.v.v.), đây là lĩnh vực văn hóa có thuộc tính là biểu tượng, bởi vì nó tạo ra những hình tượng làm định hướng cho việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn con người. Các sản phẩm văn hóa kể cả sản phẩm làm ra và sản phẩm mang đến trong xã hội mà chủ yếu là các tác phẩm văn hóa, khuôn mẫu văn hóa và chương trình văn hóa là yếu tố cấu thành nên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Hiện nay làm tham mưu cho hoạt động quản lý Nhà nước ở cấp trung ương của Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch về lĩnh vực này gồm các cơ quan: Cục Điện ảnh,

 

Cục Nghệ thuật biểu diễn, Cục Bản quyền tác giả, Cục Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm.

1.4.2. Lĩnh vực văn hóa xã hội

Đối với lĩnh vực văn hóa xã hội (lễ hội, phong tục tập quán, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa, bảo tồn - bảo tàng.v.v.), đây là lĩnh vực văn hóa có thuộc tính xã hội, nó góp phần tạo dựng nếp sống tốt đẹp cho xã hội, nó giáo dục nhân cách con người thông qua hệ thống các di sản văn hoá (vật thể và phi vật thể), hệ thống những ứng xử văn hóa trong đời sống hàng ngày và hệ thống những ứng xử văn hóa với thế giới siêu nhiên đang diễn ra trong xã hội. Hiện nay, làm tham mưu cho công tác quản lý Nhà nước ở cấp trung ương của Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch về lĩnh vực này bao gồm các cơ quan như: Cục Di sản văn hóa, Cục Văn hóa cơ sở,v.v.

Các văn bản pháp luật làm cơ sở cho công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa xã hội gồm có: Luật di sản văn hóa; Luật quảng cáo; Luật báo chí, v.v.

1.4.3. Lĩnh vực văn hóa thông tin đại chúng

Đối với lĩnh vực văn hóa thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, thư viện, xuất bản), đây là lĩnh vực văn hóa mang nhiều thuộc tính chính trị tư tưởng, nó chứa đựng những gì được coi là khai trí cho nhân loại. Cùng với đường lối của Đảng thể hiện dưới các nghị quyết và sự quản lý của Nhà nước thông qua các văn bản pháp luật, thời gian gần đây, lĩnh vực văn hóa thông tin đại chúng đã có nhiều khởi sắc, đóng góp một vai trò quan trọng trong việc định hướng chính trị tư tưởng và đem lại niềm vui, tri thức cho nhân dân. Hiện nay, tham mưu cho công tác Quản lý Nhà nước ở cấp trung ương của Bộ thông tin truyền thông trong lĩnh vực này có các cơ quan: Cục Báo chí, Cục Xuất bản, Cục phát thanh truyền hình.

Các văn bản pháp luật làm cơ sở cho công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa thông tin đại chúng gồm: Luật báo chí, Luật quảng cáo,.v.v.

1.4.4. Lĩnh vực giao lưu hợp tác văn hoá

Hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam với nước ngoài tác động tích cực đến đường lối chính trị đối ngoại, hợp tác quốc tế của đất nước. Các hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam ở nước ngoài là một kênh thông tin quảng bá, làm lan tỏa hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế. Giao lưu, hợp tác văn hóa cũng chính là quá trình tiếp xúc, trao đổi, tiếp biến, dung nạp, nâng cao các giá trị văn hóa, sản phẩm văn hóa, trình độ sáng tạo, mức độ thụ

 

hưởng đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc. Từ đó, tăng cường sự hiểu biết của những nền văn hóa với những đặc thù văn hóa Việt Nam riêng; khẳng định sự độc đáo của văn hóa Việt Nam trong môi trường, quy mô văn hóa rộng hơn, mang tính nhân loại, quốc tế. Từ sự giao lưu, tương tác văn hóa này, vị thế đất nước Việt Nam được nâng cao.

Giao lưu văn hóa góp phần duy trì giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc của Việt Nam; trở thành thành tố nổi bật trong ngoại giao văn hóa và quan hệ quốc tế của Việt Nam. Hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hoá giúp đạt các mục tiêu mà chính sách văn hoá mà Việt Nam đã đặt ra, đó là tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hoá truyền thống của đất nước. Hợp tác về văn hoá còn là nền tảng để mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực khác.Thông qua các hoạt động văn hoá đối ngoại, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hoá Việt Nam, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

 

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Anh /chị hãy cho biết khái niệm Quản lý nhà nước về văn hoá là gì? Trình bày nội dung quản lý nhà nước về văn hoá?

2. Sơ đồ hoá bộ máy quản lí nhà nước về văn hoá ở Việt Nam hiện nay?

3. Trình bày cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch?

4. Phân tích nguyên tắc và phương thức quản lý nhà nước về văn hoá?

5. Liệt kê và trình bày khái quát nội dung các văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về văn hoá đang áp dụng thực thi hiện nay?


CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Phân tích và đánh giá sơ đồ cơ cấu tổ chức của một phòng nghiệp vụ văn hóa trên địa bàn cấp tỉnh?

2. Sinh viên tìm hiểu mô hình quản lý nhà nước về văn hoá tại một số địa phương ở 2 trường hợp cụ thể: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch và việc tách sở Du lịch và Sở Văn hoá – Thể thao.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 1

[1]. T. N.Thêm, “Cơ sở văn hoá Việt Nam”. Hà Nội, Nxb Giáo dục, 2009.

[2]. P.V.Tú, “Đại cương về khoa học quản lý”.Hà Nội, Nxb Văn hoá Thông tin, 1999. [3]. H.S. Cường, “Lược sử quản lý văn hoá ở Việt Nam”.Hà Nội, Nxb Văn

hoá thông tin,1998.

[4]. L.H.Lý, D.V.Sáu, Đ.H.Thu, “Giáo trình Quản lý di sản văn hoá với phát triển du lịch ”. Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, 2010.

[5]. P.V.Tú, Tập bài giảng Quản lý nhà nước về văn hoá, dùng trong giảng dạy đối với sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hoá, trường đại học Văn hoá Hà Nội.

[6]. V.T.P.Hậu, “Một số vấn đề quản lý nhà nước về Văn hoá”, Tạp chí Thông tin văn hoá và phát triển,Số 19, tháng 3, 2009.

[7].Quốc hội, “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hà Nội, Nxb Lao động, 2013.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.

[10]. Chính phủ, Nghị định số 79/2017/NĐ-CP, “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch”, ngày 17 tháng 7 năm 2017.

[11]. Bộ VHTTDL, Thông tư số 08/2021/TT-BVHTTDL, “Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở VHTT&DL, Sở VH&TT, Sở DL thuộc UBND cấp tỉnh, phòng VH&TT thuộc UBND cấp huyện”, ngày 8 tháng 9 năm 2021.

[12]. Chính phủ, Nghị định số 107/2020/NĐ-CP, “Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 24/2014 về nghị định chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương”, ngày 14 tháng 9 năm 2020.

 


 

Chương 2

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT


2.1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐIỆN ẢNH

2.1.1. Nhận thức chung về điện ảnh

Hoạt động điện ảnh và quản lý hoạt động điện ảnh phải tuân thủ quy định của Luật Điện ảnh và các quy định khác của pháp luật có liên quan do Nhà nước ban hành. Tại Khoản 4, điều 1, chương I của Luật điện ảnh (2009) giải thích các từ ngữ cụ thể như sau:

Điện ảnh là loại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh động, kết hợp với âm thanh, được ghi trên vật liệu phim nhựa, băng từ, đĩa từ và các vật liệu ghi hình khác để phổ biến đến công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật [13].

Tác phẩm điện ảnh (phim) là sản phẩm nghệ thuật được biểu hiện bằng hình ảnh động kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh [13]. Phim được chia thành các thể loại như sau:

Phim là tác phẩm điện ảnh bao gồm phim truyện, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình.

Phim nhựa là phim được sản xuất bằng phương tiện kỹ thuật điện ảnh, được ghi trên vật liệu phim nhựa để chiếu trên màn ảnh thông qua máy chiếu phim.

Phim video là phim sản xuất bằng phương tiện kỹ thuật video, được ghi trên băng từ, đĩa từ và các vật liệu ghi hình khác để phát thông qua thiết bị video.

Phim truyền hình là phim video để phát trên sóng truyền hình.

Băng phim, đĩa phim là sản phẩm của phim video hoặc được in sang từ phim nhựa [13].

 

Hoạt động điện ảnh là hoạt động bao gồm sản xuất phim, phát hành phim và phổ biến phim. Trong đó: Sản xuất phim là quá trình tạo ra tác phẩm điện ảnh từ kịch bản văn học đến khi hoàn thành bộ phim. Các công đoạn sản xuất phim: Kịch bản văn học → Kịch bản sản xuất (Kịch bản phân cảnh) và Tổ chức đoàn làm phim → Tổ chức quay phim → Hậu kỳ → Phát hành phim → Phổ biến phim.

Kịch bản văn học là sản phẩm sáng tạo của biên kịch dưới dạng văn bản thể hiện toàn bộ diễn biến của câu chuyện phim.

Kịch bản phân cảnh là sản phẩm sáng tạo của đạo điễn dưới dạng văn bản thể hiện kỹ thuật chuyên môn và phương pháp thực hiện các cảnh quay của bộ phim dựa trên kịch bản văn học.

Phát hành phim là quá trình lưu thông phim thông qua hình thức bán, cho thuê, xuất khẩu, nhập khẩu.

Phổ biến phim là việc đưa phim đến công chúng thông qua chiếu phim, phát sóng trên truyền hình, đưa lên mạng Internet và phương tiện nghe nhìn khác.

Cơ sở điện ảnh là cơ sở do tổ chức, cá nhân thành lập, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim.

Cơ sở dịch vụ sản xuất phim là cơ sở điện ảnh cung cấp phương tiện, trang bị, thiết bị kỹ thuật, bối cảnh và nhân lực cho việc sản xuất phim.

Chủ sở hữu phim là tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính để sản xuất phim, mua quyền sở hữu phim; được cho, tặng hoặc thừa kế quyền sở hữu phim và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Các loại hình cơ sở điện ảnh bao gồm: Cơ sở sản xuất phim; Cơ sở dịch vụ sản xuất phim; Cơ sở in sang; nhân bản phim; Cơ sở bán, cho thuê phim; Cơ sở xuất khẩu, nhập khẩu phim; Cơ sở chiếu phim; Cơ sở điện ảnh khác theo quy định của pháp luật [13].

2.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về điện ảnh

Một là, Nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển sự nghiệp điện ảnh, định hướng phát triển cơ sở điện ảnh trong quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao; ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động điện ảnh.

Một văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực điện ảnh đã được ban hành là các văn bản Luật điện ảnh, Quyết định, Thông tư …quy định và hướng dẫn cụ thể đối với các hoạt động thuộc điện ảnh phù hợp với từng thời gian cụ thể để tăng cường sự quản lý nhà nước đối với hoạt động điện ảnh.

 

Hai là, Nhà nước quản lý công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong hoạt động điện ảnh; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực về chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý hoạt động điện ảnh.

Ba là, Nhà nước quản lý hợp tác quốc tế trong hoạt động điện ảnh.

Một số công tác quản lý về hoạt động hợp tác quốc tế trong điện ảnh được quy định trong Luật Điện ảnh như:

Việc hợp tác, liên doanh để sản xuất phim với tổ chức, cá nhân nước ngoài, việc cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp giấy phép.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm tổ chức liên hoan phim quốc gia theo định kỳ và tổ chức liên hoan phim quốc tế tại Việt Nam;

Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hội điện ảnh được tổ chức liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề và phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận.

Việc tổ chức những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận.

Việc đặt văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp giấy phép.

Việc đặt văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận.

Bốn là, Nhà nước có quyền cấp và thu hồi giấy phép trong hoạt động điện

ảnh.

Theo Luật Điện ảnh (2009), một số hoạt động điện ảnh cần làm thủ tục hành

chính để xin phép cơ quan quản lý nhà nước như sau:

Bộ Văn hóa thể thao và du lịch cấp giấy phép phổ biến phim đối với phim sản xuất và nhập khẩu của cơ sở điện ảnh thuộc trung ương, cơ sở điện ảnh thuộc địa phương và cơ sở điện ảnh tư nhân trong phạm vi cả nước. Phim tài liệu, phim khoa học, các phim hoạt hình do cơ sở điện ảnh thuộc trung ương sản xuất hoặc nhập khẩu; Phim được sản xuất từ việc hợp tác, cung cấp dịch vụ sản xuất, liên doanh sản xuất với tổ chức cá nhân nước ngoài.

Bộ Văn hóa thể thao và du lịch có quyền thu hồi giấy phép phổ biến phim, quyết định phát sóng phim truyền hình; tạm đình chỉ đình chỉ việc phổ biến phim vi phạm pháp luật.

 

Ủy ban nhân dân tỉnh cấp giấy phép phổ biến phim đối với phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình cơ sở điện ảnh thuộc địa phương sản xuất hoặc nhập khẩu, phim truyện theo thẩm quyền.

Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh được quyền tự chủ, chủ tự chịu trách nhiệm quyết định việc phát sóng trên đài truyền hình của mình phim do mình sản xuất hoặc nhập khẩu. Việc cấp giấy phép phổ biến phim, quyết định phát sóng phim trên truyền hình được thực hiện trên cơ sở ý kiến của Hội đồng thẩm định phim.

Hội đồng thẩm định phim cấp trung ương do Bộ trưởng bộ văn hóa thể thao và du lịch thành lập; Hội đồng thẩm định phim cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập; Hội đồng thẩm định phim của đài truyền hình Việt Nam do Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam thành lập, hội đồng thẩm định phim của Đài phát thanh truyền hình cấp tỉnh do Giám đốc đài phát thanh truyền hình các tỉnh thành lập.

Năm là, Nhà nước thực hiện công tác khen thưởng trong hoạt động điện ảnh; tuyển chọn và trao giải thưởng đối với cá nhân và tác phẩm điện ảnh.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm tổ chức liên hoan phim quốc gia theo định kỳ và tổ chức liên hoan phim quốc tế tại Việt Nam.

Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hội điện ảnh được tổ chức liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề và phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận.

Phim tham dự liên hoan phim phải có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc có quyết định phát sóng của người đứng đầu đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình;

Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được chiếu giới thiệu phim nước ngoài tại Việt Nam sau khi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận.

Cơ sở sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim, đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình được quyền tham gia liên hoan phim quốc tế, hội chợ phim quốc tế, tổ chức những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài;

Phim tham gia liên hoan phim quốc tế, hội chợ phim quốc tế, những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài phải có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc có quyết định phát sóng của người đứng đầu đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình.

 

Việc tổ chức những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận.

Đài Truyền hình Việt Nam được tổ chức liên hoan phim truyền hình quốc gia và quốc tế tại Việt Nam.

Đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình được tổ chức liên hoan phim truyền hình và phải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận, trừ trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 42 ,Luật Điện ảnh (2009).

Sáu là, Nhà nước tiến hành thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động điện ảnh. Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về điện ảnh. Thanh tra điện ảnh có các nhiệm vụ sau đây:

Thanh tra việc thực hiện pháp luật, chính sách về điện ảnh;

Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về điện ảnh;

Xác minh, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về điện ảnh.

Tổ chức và hoạt động của thanh tra điện ảnh được thực hiện theo quy định của Luật Điện ảnh và pháp luật về thanh tra.

Những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực điện ảnh được quy định tại điều 11, 49, 50, 51, 52 của Luật Điện ảnh (2009) trong các hoạt động điện ảnh bao gồm: sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim; phát hành phim; phổ biến phim; lưu chiểu phim và lưu trữ phim được quy định cụ thể như sau:

Những hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh (1).. Tuyên truyền chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. (2)Tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và Nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục.(3). Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước; bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại; bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật. (4). Xuyên tạc sự thật lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.

Hành vi vi phạm trong sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim: (1). Sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim không có giấy phép kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng nội dung ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.(2). Hợp tác, liên doanh sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim

 

cho tổ chức, cá nhân nước ngoài không có giấy phép của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc thực hiện không đúng nội dung quy định trong giấy phép. (3). Vi phạm quy định về ký kết và thực hiện hợp đồng giữa Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim với chủ đầu tư hoặc với biên kịch, đạo diễn và các thành viên khác trong đoàn làm phim. (4). Không trình duyệt phim để được cấp giấy phép trước khi phổ biến phim. (5). Không thành lập Hội đồng thẩm định kịch bản, không tổ chức đấu thầu đối với sản xuất phim sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật này.

Hành vi vi phạm trong phát hành phim: (1.)Phát hành phim khi chưa có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc chưa có quyết định phát sóng của người đứng đầu đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình. (2). Phát hành phim sau khi có quyết định cấm phổ biến, tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi, tịch thu, tiêu hủy. (3). Phát hành băng phim, đĩa phim không dán nhãn kiểm soát của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. (4). In sang, nhân bản phim để phát hành không có hợp đồng hoặc không theo đúng hợp đồng với chủ sở hữu phim.(5). Xuất khẩu phim khi chưa có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc chưa có quyết định phát sóng của người đứng đầu đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình.(6). Xuất khẩu băng phim, đĩa phim không dán nhãn kiểm soát của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. (7). Nhập khẩu phim không đúng quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật Điện ảnh. (8). Cho thuê, bán phim lưu hành nội bộ. (9). Quản lý và sử dụng phim nhập khẩu phục vụ công tác nghiên cứu khoa học không đúng mục đích, cho người tham dự xem phim không đúng đối tượng.

Hành vi vi phạm trong phổ biến phim: (1). Chiếu phim, phát sóng phim chưa có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc chưa có quyết định phát sóng của người đứng đầu đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình. (2). Chiếu phim, phát sóng phim đã có quyết định cấm phổ biến, tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi, tịch thu, tiêu hủy. (3). Rạp chiếu phim không đủ tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. (4). Cho phép trẻ em vào rạp chiếu phim để xem loại phim cấm trẻ em. (5). Không thực hiện đúng quy định của Chính phủ về tỷ lệ số buổi chiếu, thời lượng, giờ chiếu phim, phát sóng phim Việt Nam; thời lượng và giờ chiếu phim, phát sóng phim cho trẻ em.

Hành vi vi phạm trong lưu chiểu phim, lưu trữ phim: (1). Cơ sở sản xuất phim, cơ sở nhập khẩu phim không nộp lưu chiểu hoặc nộp không đủ số lượng, không đúng chủng loại phim. (2). Cơ sở sản xuất phim không nộp lưu trữ vật liệu gốc của phim tài trợ, đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước hoặc nộp không đủ số lượng, không đúng chủng loại cho cơ sở lưu trữ phim trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày phim được cấp giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh; (3). Cơ quan nhận lưu chiểu không nộp bản lưu chiểu cho cơ sở lưu trữ trong thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày phim được cấp giấy

 

phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh; (4). Cơ sở lưu trữ phim không cung cấp lại bản sao, in trích tư liệu của phim cho cơ sở sản xuất phim theo quy định của pháp luật; (5). Cơ sở lưu trữ phim không bảo đảm an toàn phim, vật liệu gốc của phim và không bảo quản theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật về lưu trữ; (6). Cơ sở lưu trữ phim bán, cho thuê phim khi chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu phim, chưa có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc chưa có quyết định phát sóng của người đứng đầu đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình; (7). Cơ sở lưu trữ phim do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý in sang, nhân bản để bán, cho thuê, phổ biến phim lưu chiểu khi chưa được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh; quản lý, sử dụng nguồn thu không theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính.

Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động điện ảnh thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

2.1.3. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực điện ảnh

2.1.3.1. Một số kết quả đã đạt được

Điện ảnh được xác định là một trong mười hai ngành công nghiệp văn hoá ở Việt Nam. Ngành công nghiệp này đã dần hồi sinh nhờ chính sách xã hội hóa của Nhà nước vào đầu thập niên 2000, mà điểm nhấn của nó là bộ Luật điện ảnh được ban hành vào năm 2006. Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật điện ảnh (2009), các bộ luật này đã trở thành đòn bảy cho kỷ nguyên mới của ngành công nghiệp điện ảnh và trình chiếu phim tại Việt Nam.

Theo báo cáo ”Kế thừa, phát huy truyền thống văn hoá dân tộc; xây dựng, chiến lược văn hoá sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; Các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hoá, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, kết quả xây dựng, phát triển bước đầu của một số ngành công nghiệp văn hoá ở Việt Nam, trong đó điện ảnh được thống kê cụ thể ở bảng

2.1 dưới đây:

 

Bảng 2.1. Một số kết quả hoạt động của điện ảnh Việt Nam giai đoạn 2019-2021




TT

Nội dung Năm

2019 2020 20211

1 Tổng số hãng phim 547 586 05

Hãng phim Nhà nước 01 01 01

Hãng phim Nhà nước nắm giữ cổ phần 04 04 04

Hãng phim tư nhân 542 581 02

2 Tổng số phim được sản xuất được cấp phép phổ biến

143

161

36

Phim truyện chiếu rạp 41 32 18

Phim truyện video 10 04 0

Phim tài liệu nhựa (Hãng phim Quân đội sản xuất)

02

0

0

Phim tài liệu video (do Nhà nước đặt hàng sản xuất)

17

48

9

Phim hoạt hình (do Nhà nước đặt hàng sản xuất )

13

21

01

Phim truyện ngắn 25 26 04

Dự án phim hợp tác, cung cấp dịch vụ sản xuất phim với tổ chức, cá nhân nước ngoài

35

30

04

3 Tổng số phim truyện được phát hành 242 191 98



1 Số liệu thống kê và ước tính đến tháng 9 năm 2021

2 Sản xuất phim không còn là ngành nghề áp dụng điều kiện linh doanh theo Luật Đầu tư năm 2020, do vậy không thống kê số hãng sản xuất phim được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh sản xuất phim.

 


Phim truyện Việt Nam 41 32 18

Phim truyện nước ngoài 201 157 78

4 Bình quân xem phim/người/năm tại rạp

(Đơn vị tính: Triệu lượt người)

56

22

12

5 Ước tính doanh thu chiếu phim

(Đơn vị tính: Tỷ đồng)

4.000

1.700

1.100

[Nguồn: Ban Tổ chức Hội nghị văn hoá toàn quốc tháng 11 năm 2021]

Căn cứ theo bảng số liệu, số hãng phim đến năm 2020 gần 600, trong đó hãng phim Nhà nước chỉ có một hãng duy nhất, hãng phim Nhà nước giữ cổ phần là 04 hãng và đến năm 2021 đều không có thêm hãng phim nào. Còn đối với hãng phim tư nhân thì tăng từ 542 hãng phim năm 2019 lên 581 hãng phim vào năm 2020, không có số liệu thống kê và năm 2021 vì đến năm 2021 sản xuất phim không còn là ngành nghề áp dụng điều kiện linh doanh theo Luật Đầu tư năm 2020, do vậy không thống kê số hãng sản xuất phim được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh sản xuất phim.

Tổng số phim được cấp phép phổ biến có xu hướng tăng, tuy nhiên đến năm 2021 giảm mạnh do chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19. Năm 2019 số lượng các phim được cấp phép phổ biến đều hơn ở các thể loại, năm 2020 số lượng tăng là tăng số lượng do Nhà nước đặt hàng sản xuất ở hai thể loại (phim tài liệu và phim hoạt hình).

Trong tình hình diễn biến phức tạp của nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta, và làm cho nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn. Điều này tác động lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Hoạt động về kinh doanh điện ảnh đã đạt được một số kết quả sau:

Thực hiện các quy định về kinh doanh điện ảnh được áp dụng trên thực tế cũng như các văn bản chỉ đạo ở Việt Nam do nhà nước ban hành là kim chỉ nam cho các hoạt động đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh trong thực tiễn ở Việt Nam. Việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật dựa trên nền tảng là quy định của Hiến pháp là việc làm cần thiết. Hệ thống pháp luật về công ty kinh doanh điện ảnh về cơ bản đã tương đối hoàn thiện. Các văn bản pháp luật điều chỉnh đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh là việc làm quan trọng chuẩn bị cho Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tăng cường công tác quản lý nhà nước về vấn đề này.

 

Khi thu nhập trung bình tăng và mức sống ngày càng được cải thiện hơn, người dân Việt Nam sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các hoạt động giải trí. Trong số đó, xem phim chiếu rạp trở thành một lựa chọn phổ biến dành cho việc giải trí. Nhiều nhà phát hành cùng tham gia thị trường không chỉ góp phần tăng số lượng cụm rạp trên cả nước mà còn nâng cao chất lượng phòng chiếu.

Những nhà phát hành lớn là đối tác của các studio lớn trên thế giới đã mang lại cho khán giả Việt cơ hội được xem phim bom tấn cùng lúc với những thị trường lớn như Bắc Mỹ. Thị trường điện ảnh Việt Nam bắt đầu xuất hiện những con số ấn tượng về doanh thu phòng vé, không chỉ với phim Hollywood mà cả phim Việt Nam. Thị phần phim chiếu rạp tại Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc và vẫn đang trong quá trình tăng trưởng mạnh với nhiều tiềm năng. Thị trường đang tăng trưởng mạnh khi lượng khán giả đến rạp xem phim, nhất là ở nhiều đô thị tăng lên. Theo thống kê, số lượng phòng chiếu phim trên cả nước năm 2020 là 965 phòng.

Thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội qua từng giai đoạn đã tạo nền tảng cho quá trình áp dụng pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh nói chung và góp phần quan trọng trọng quá trình quản lý nhà nước về vấn đề này trong thực tiễn. Đây chính là nhiệm vụ quan trọng và là thành tựu quan trọng trong quá trình hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền trên ở Việt Nam trong giai đoạn mới. Như vậy, nhìn chung việc ban hành chủ trương, chính sách đối với vấn đề này là vô cùng quan trọng và hiệu quả. Thông qua công tác này tạo sự thống nhất về ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; tăng cường hoạt động trong thực tiễn thi hành pháp luật doanh nghiệp ở nước ta trong thời kỳ mới - hội nhập và phát triển.

Triển khai thực hiện pháp luật về quản lý doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh trong thực tế trên ở Việt Nam. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay thì rất được các cơ quan nhà nước quản lý về kinh doanh quan tâm về mọi mặt. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ ở Việt Nam cũng như các nội dung có liên quan được tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, sâu rộng trong công tác quản lý về doanh nghiệp trên ở Việt Nam nói chung trong thời gian vừa qua. Việc triển khai các chủ trương nói chung là điều kiện quan trọng trong quá trình quản lý nhà nước về doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh ở Việt Nam.

Qua việc thực hiện chức năng nhiệm vụ, lực lượng quản lý nhà nước về kinh doanh điện ảnh của các doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh đã hình thành được mối quan hệ phối hợp với các ban ngành hữu quan. Có cơ chế phối hợp quan trọng nhằm quản lý và thực hiện có hiệu quả tình hình kinh doanh điện ảnh của các doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh. Triển khai nhiều nội dung phối hợp

 

có hiệu quả, nhất là hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh điện ảnh của các doanh nghiệp kinh doanh điện ảnh có sự tham gia của cả nhiều lực lượng có liên quan nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong ở Việt Nam trong thời gian qua.

2.1.3.2. Những tồn tại và hạn chế

Các quy định chưa phù hợp với thực tế hoặc thay đổi của hoạt động điện ảnh nên không có tính khả thi hoặc tính khả thi không cao.

Quy định của Luật Điện ảnh chưa thể hiện đầy đủ tính chất đặc thù của hoạt động điện ảnh. Một số chính sách của Nhà nước về phát triển điện ảnh quy định tại Luật điện ảnh chưa có tính khả thi, chưa được thực hiện nghiêm túc như chính sách ưu đãi về thuế đối với các hoạt động điện ảnh; chính sách đặc thù đối với các Đội chiếu phim lưu động; chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý hoạt động điện ảnh. Chính sách tài trợ cho việc phổ biến phim phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa, thiếu nhi, phục vụ nhiệm vụ chính trị trên thực tế chưa được thực hiện triệt để do chưa có nguồn kinh phí.

Tại quyết định số 2156/QĐ-TTg, ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về quyết định phê duyệt: “Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020 và tầm nhìn tới năm 2030”. Nhưng hầu hết các địa phương không quan tâm và không thực hiện. Trên thực tế các địa phương không hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn triệt tiêu các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực điện ảnh bằng việc sát nhập vào các trung tâm văn hóa đồng thời cho liên doanh liên kết các khu đất vàng của rạp để chuyển đổi mục đích sử dụng. Chuyển các rạp chiếu vào những khu vực không thuận lợi và chỉ duy trì có một phòng chiếu, trang thiết bị lạc hậu không thu hút được người xem. Hiện nay trong cả nước 63 tỉnh thành duy nhất chỉ có Đắk Lắk là tỉnh còn duy trì được 03 phòng chiếu [14].

Việc quy định “Đối với doanh nghiệp sản xuất phim, ngoài việc phải có các điều kiện thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp còn phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp” là một trong những điểm làm hạn chế sự huy động của các tổ chức cá nhân tham gia vào lĩnh vực điện ảnh [15].

Một số quy định của Luật Điện ảnh còn nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế. Cụ thể: Việc quy định “Doanh nghiệp phát hành phim, doanh nghiệp khác có đăng ký kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu phim phải có rạp chiếu phim để tham gia phổ biến phim”. Quy định này cho phép một công ty thực hiện đồng thời hai chức năng vừa phát hành vừa phổ biến phim, dẫn đến công ty nhập khẩu mạnh

 

có hệ thống rạp lớn đã chi phối thị trường chiếu phim, thực hiện thống lĩnh thị trường và thể hiện sự cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép công ty nhỏ, yếu hơn.

Tuy nhiên, trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường trong nước, thời kỳ Nhà nước chủ động điều chỉnh chính sách quota về phim như trước đây đã không còn thuận lợi, vì chủ đề này sẽ được đặt ra trên bàn đàm phán các hiệp định thương mại quốc tế. Do đó, đây sẽ là vấn đề phải nghiên cứu để có biện pháp điều chỉnh thích hợp trong lĩnh vực điện ảnh.

Trong ba khâu quan trọng của một thị trường điện ảnh, bao gồm: sản xuất phim, phát hành phim và phổ biến phim, yếu tố quyết định chính là kiểm soát được khâu phát hành, không để các doanh nghiệp nước ngoài thao túng. Tại nhiều nước, doanh nghiệp trong nước vẫn nắm giữ hầu hết thị phần khâu phát hành phim và cả phổ biến phim. Do đó, phải có chính sách ưu đãi bằng thuế và đất đai để doanh nghiệp trong nước tích cực tham gia vào phát hành phim hoặc phải quy định bắt buộc doanh nghiệp nước ngoài muốn tham gia phát hành phim nước ngoài vào thị trường thì phải thông qua liên doanh hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước, nhưng không được chiếm cổ phần chi phối.

2.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN

2.2.1. Nhận thức chung về nghệ thuật biểu diễn

Hoạt động nghệ thuật biểu diễn là hoạt động tạo ra những sản phẩm nghệ thuật được định hình dưới dạng văn bản, âm thanh, hình ảnh để truyền đạt trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện kỹ thuật tới công chúng dưới các hình thức biểu diễn nghệ thuật; lưu hành bản ghi âm, ghi hình có nội dung biểu diễn nghệ thuật [ 17].

Biểu diễn nghệ thuật là hoạt động thể hiện các loại hình nghệ thuật biểu diễn, thi người đẹp, người mẫu hoặc kết hợp giữa loại hình nghệ thuật biểu diễn với trình diễn thời trang, các hoạt động văn hoá, thể thao.

Loại hình nghệ thuật biểu diễn bao gồm sân khấu, âm nhạc, múa và các hình thức diễn xướng dân gian từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam và thế giới.

2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật

Một là, Nhà nước xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.

 

Việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật theo Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 thay thể đối với nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu là văn bản pháp quy chuyên môn cao nhất để quản lý thị trường nghệ thuật biểu diễn đã hết hiệu lực.

Hai là, Nhà nước quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân lực về chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.

Ba là, Nhà nước quản lý hợp tác quốc tế về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu [18].

Bốn là, Nhà nước cấp và thu hồi giấy phép biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu trên lãnh thổ Việt Nam hoặc từ Việt Nam ra nước ngoài.

Năm là, Nhà nước thực hiện công tác khen thưởng đối với biểu diễn nghệ thuật, tổ chức liên hoan, hội thi về biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp.

Sáu là, Nhà nước tiến hành thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.

Các hành vi vi phạm và mức xử phạt được quy định cụ thể tại các khoản của điều từ 11 đến 13, mục 2- Hành vi vi phạm về hoạt động nghệ thuật biểu diễn của nghị định số 38/NĐ-CP, ngày 29 tháng 3 năm 2021 đó là:

Điều 11: Vi phạm quy định về biểu diễn nghệ thuật, cuộc thi, liên hoan và các loại hình nghệ thuật biểu diễn (quy định 9 khoản vi phạm).

Điều 12: Vi phạm quy định về thi người đẹp, người mẫu (cụ thể 9 khoản vi phạm).

Điều 13: Vi phạm quy định về lưu hành bản ghi âm, ghi hình có nội dung nghệ thuật biểu diễn (quy định 5 khoản cụ thể).

2.2.3. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn

Hiện nay, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn được thực hiện theo Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Ghi nhận từ đầu năm 2019 công tác quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật đã có những chuyển biến tích cực, có sự quản lý hiệu quả, khoa học. Trong đó, thông qua Nghị định của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã bỏ bớt những thủ tục hành chính rườm rà đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực thi pháp luật và công tác quản lý. Kèm theo việc ban hành nghị định số 144/2020/NĐ-CP là phụ lục hướng dẫn cụ thể 12 mẫu văn bản để thực hiện quy trình quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật (Văn bản thông báo, đề nghị, đề án tổ chức cuộc thi, liên hoan, văn bản chấp thuận việc tổ chức cuộc thi, tờ khai. Về việc ra nước ngoài dự thi, tờ khai nộp lưu chiểu bản ghi âm, ghi hình…)

Bảng 2.2. Một số kết quả hoạt động nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam giai đoạn 2019-2021










3 Chỉ tính riêng các đơn vị thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

 

Tổng số vở diễn, chương trình, tiết mục sửa chữa, nâng cao

06

10

07

2.2 Các đơn vị nghệ thuật địa phương 658 567

Tổng số vở diễn, chương trình, tiết mục mới dàn dựng

332

308

Tổng số vở diễn, chương trình, tiết mục sửa chữa, nâng cao

326

259

3 Tổng số doanh thu của các đơn vị nghệ thuật Trung ương do Bộ quản lý (đơn vị: tỷ đồng)

72,32

42,29

5,32

4 Tổng số cuộc thi, liên hoan biểu diễn nghệ thuật đã tổ chức trong năm

08

07

03

5 Tổng số buổi biểu diễn của các đoàn nghệ thuật thuộc ngành quản lý trong cả nước

10492

3724

541

Đơn vị nghệ thuật trung ương (buổi) 3398 1637 206

Đơn vị nghệ thuật địa phương (buổi) 7094 2087 335

6 Bình quân xem biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp4

11,68

2,62

0,47

Các đơn vị nghệ thuật Trung ương 3,07 1,15 0,14

Các đơn vị nghệ thuật địa phương 8,61 1,47 0,33

[Nguồn: Ban Tổ chức Hội nghị văn hoá toàn quốc tháng 11 năm 2021]

Hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp đã góp phần làm cho các loại hình nghệ thuật phát triển, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, nhiều chương trình nghệ thuật có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân. Các hoạt động nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn ngày càng được đầu tư, phát triển về chất lượng nghệ thuật và năng lực tổ chức, đáp ứng tốt nhu cầu



4 Đơn vị tính: Triệu lượt người/năm

 

hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân, nhất là chiến sỹ, đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.

Thanh tra ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phát huy tốt vai trò quản lý Nhà nước, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra khi có các hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật hiện có, nội dung thanh tra về biểu diễn nghệ thuật bao gồm: Thanh tra trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thanh tra việc tổ chức các cuộc thi người đẹp, người mẫu và thanh tra hoạt động lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu, phổ biến tác phẩm.

Tuy nhiên, hiện vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Đơn cử như như việc cấp giấy phép biểu diễn, tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang chủ yếu thực hiện trên hồ sơ, không thực hiện thẩm định nội dung chương trình. Cùng với đó, công tác kiểm tra, hậu kiểm còn lỏng lẻo, chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, trình diễn thời trang còn quá nhẹ nên chưa đủ sức răn đe, một số điều khoản chưa phù hợp với thực tế. Tình trạng một số đoàn nghệ thuật đến các cơ quan, trường học thường xuyên nài ép, vận động mua vé xem biểu diễn gây bức xúc. Một số quán cà phê mời ca sỹ về hát dưới hình thức giao lưu với khán giả “hát cho nhau nghe” không bán vé nhưng thực chất phụ thu vào tiền nước của khách với giá cao và khi tổ chức thường không thông báo theo quy định.

Báo cáo của Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020) cho biết: Hiện còn khá phổ biến tình trạng ứng xử phản cảm của các nghệ sĩ trong các chương trình biểu diễn nghệ thuật. Một số đơn vị biểu diễn không có giấy phép, tự thay đổi nội dung biểu diễn, ứng xử phản cảm của các nghệ sĩ, các đơn vị mạo danh, sử dụng không đúng tên, nghệ danh của nghệ sĩ nhằm lừa gạt khán thính giả, tình trạng “nhạc chế” sử dụng ca từ dung tục gây bức xúc trong dư luận. Bên cạnh đó, trong thời gian dài vừa qua, nhiều ý kiến phản ánh và đề nghị có biện pháp chấn chỉnh các tiết mục biểu diễn trong các chương trình truyền hình thực tế, đặc biệt là các chương trình hài có nội dung phản cảm, trái đạo đức, thuần phong mỹ tục, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc.

Qua thanh tra cho thấy, trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật vẫn xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực, vi phạm như: Biểu diễn không có giấy phép; không đúng nội dung giấy phép; lợi dụng giấy giới thiệu của cơ quan Nhà nước để ký hợp đồng biểu diễn, tổ chức bán vé thu tiền nhưng không thực hiện đúng hợp đồng, bán vé quá số ghế quy định; tự ý tăng giá vé; quảng cáo sai sự thật, không đúng nội dung, thời gian chương trình biểu diễn; mạo danh, sử dụng không đúng

 

tên, nghệ danh của ca sĩ, diễn viên đã được cơ quan có thẩm quyền duyệt; sử dụng tác phẩm biểu diễn thu tiền nhưng không thực thi quyền tác giả, không trả tiền tác quyền cho nhạc sĩ; sử dụng thiết bị thu âm trước để thể hiện thay cho biểu diễn thật (“hát nhép”); sử dụng những bài hát chưa được phép phổ biến; người biểu diễn tự ý thêm bớt lời ca, động tác biểu diễn và trang phục phản cảm, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc... [15]. Những điều này đã làm ảnh hưởng đến phong cách thẩm mỹ của một bộ phận giới trẻ và gây những bức xúc trong dư luận xã hội. Thực trạng trên xảy ra do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Song một trong những nguyên nhân cơ bản là do công tác thanh tra, kiểm tra ở một số địa phương chưa thật sự đạt hiệu quả; lực lượng thanh tra, hậu kiểm còn mỏng, chế tài xử lý vi phạm còn thiếu và chưa đủ sức răn đe nên dẫn đến các hạn chế về quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật.

2.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG MỸ THUẬT, NHIẾP ẢNH VÀ TRIỂN LÃM

2.3.1. Nhận thức chung về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm

Tác phẩm mỹ thuật là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục, bao gồm:

Hội họa: Tranh sơn mài, sơn dầu, lụa, bột màu, màu nước, giấy dó và các chất liệu khác;

Đồ họa: Tranh khắc gỗ, khắc kim loại, khắc cao su, khắc thạch cao, in độc bản, in đá, in lưới, tranh cổ động, thiết kế đồ họa và các chất liệu khác;

Điêu khắc: Tượng, tượng đài, phù điêu, khối biểu tượng;

Nghệ thuật sắp đặt và các hình thức nghệ thuật đương đại khác.

Triển lãm mỹ thuật là việc tổ chức trưng bày tác phẩm, hiện vật, tài liệu tập trung trong một thời gian, tại một không gian nhất định theo các hình thức khác nhau, bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau nhằm mục đích giới thiệu, công bố, phổ biến trong xã hội, cộng đồng. Triển lãm không vì mục đích thương mại là triển lãm không bao gồm hoạt động mua bán hoặc tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán. Hoạt động phối hợp trogn triển lãm là các hoạt động diễn ra trước và trong quá trình triển lãm, có nội dung bổ sung thông tin, tuyên truyền hoặc làm phong phú cho hoạt động triển lãm [19].

Tượng đài, tranh hoành tráng là tác phẩm mỹ thuật có chất liệu bền vững, kích thước lớn, có tính biểu tượng cao, đặt cố định nơi công cộng.

Mẫu phác thảo tượng đài, tranh hoành tráng là bản gốc để thể hiện và hoàn chỉnh tác phẩm.

 

Nghệ thuật sắp đặt là loại hình nghệ thuật sắp xếp các vật thể, hình thể, hình ảnh tĩnh hoặc động cơ có nội dung và tính thẩm mỹ.

Giám định tác phẩm mỹ thuật là xác định giá trị nghệ thuật, nguồn gốc, tác giả và chủ sở hữu tác phẩm mỹ thuật.

Sao chép tác phẩm mỹ thuật là việc làm ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào [20].

2.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm

Một là, Nhà nước xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về hoạt động mỹ thuật; phổ biến, giáo dục pháp luật về mỹ thuật.

Hiện tại, lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm có các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành có hiệu lực: Thông tư số 01/2018/TT- BVHTTDL của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số điều tại Nghị định số 113/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 của chính phủ về hoạt động mỹ thuật; Nghị định số 23/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động triển lãm; Nghị định số 38/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trogn lĩnh vực văn hoá và quảng cáo.

Hai là, Nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn và quản lý mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm.

Ba là, cấp và thu hồi giấy phép trong hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển

lãm.

Bốn là, tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong hoạt động mỹ

thuật nhiếp ảnh, triển lãm; tuyển chọn và trao giải thưởng đối với cá nhân và tác phẩm mỹ thuật. nhiếp ảnh, triển lãm.

Năm là, tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế trong hoạt động mỹ thuật.

Sáu là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động mỹ thuật.

Những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động mỹ thuật được quy định tại mục 4, chương II, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP của Chính phủ cụ thể như sau:

Điều 17: Vi phạm quy định về hoạt động mỹ thuật Điều 18: Vi phạm quy định về hoạt động nhiếp ảnh Điều 19: Vi phạm quy định về hoạt động triển lãm

 

Nội dung vi phạm chủ yếu của hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm chủ yếu là tổ chức hoạt động mà không báo cáo với cơ quan Nhà nước; không có văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước coa thẩm quyền theo quy định; không được chấp nhận tổ chức mà vẫn tiến hành tổ chức, kê khai không trung thực trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tổ chức cuộc thi mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm…tại nghị định này, quy định cụ thể mức xử phạt tài chính đối với các vi phạm cụ thể trong hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm…[16].

2.3.3. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm

Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm là các lĩnh vực nghệ thuật trong đó đề cao tính sáng tạo của cá nhân cụ thể là các nghệ sĩ. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, các ngành, lĩnh vực tham gia hoạt động kinh tế, xã hội có xu hướng chuyển sang hoạt động với tư duy công nghiệp. Lĩnh vực Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm không nằm ngoài xu hướng đó.

Trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, các lĩnh vực này được xem là các “ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa”. Theo đó, mục tiêu phấn đấu của ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm đến năm 2020 doanh thu đạt khoảng 80 triệu USD, đến năm 2030 doanh thu đạt khoảng 125 triệu USD.

Triển khai Chiến lược, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Kế hoạch theo Quyết định số 5605/QĐ-BVHTTDL ngày 29/7/2018. Trong đó có các nhiệm vụ đối với lĩnh vực Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm. Cụ thể, các nhiệm vụ chính đối với ngành công nhiệp văn hóa này sẽ do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm thực hiện bao gồm: (1) Xây dựng cơ sở dữ liệu ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm; (2) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; (3) Quảng bá thương hiệu quốc gia cho ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm; (4) Đề án xây dựng thương hiệu quốc gia cho ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm.

Như vậy, về cơ bản chính sách để phát triển ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm để trở thành một ngành công nghiệp văn hóa đã được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao Cục MTNA&TL là cơ quan đầu mối, theo dõi, đôn đốc và từng bước triển khai nhiệm vụ chung về công nghiệp văn hóa.

 

Định kỳ 3 năm một lần, Bộ VHTT&DL tổ chức Hội nghị tổng kết công tác quản lý mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm (MTNA&TL). Hội nghị đánh giá về công tác quản lý MTNA&TL, những thành tựu đạt được và những vấn đề tồn tại, hạn chế, những vấn đề phát sinh trong 3 năm, đề ra phương hướng nhiệm vụ trong những năm tiếp theo để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước, nhằm đưa sự nghiệp MTNA&TL phát triển đáp ứng được những đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tìm ra những giải pháp phù hợp trong xu thế phát triển để quản lý và thúc đẩy lĩnh vực MTNA&TL đạt được những thành tựu xứng đáng trong những năm tiếp theo.

Việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của lĩnh vực MTNA&TL đã được chú trọng và có những bước tiến quan trọng.

Bảng 2.3. Một số kết quả trong hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm giai đoạn 2019-2021.







[Nguồn: Ban Tổ chức Hội nghị văn hoá toàn quốc, tháng 11 năm 2021]

Năm 2013, Nghị định 113/2013/NĐ-CP ngày 02/10/2013 của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý về hoạt động mỹ thuật được ban hành. Thời điểm đó, nhiều nội dung được Nghị định quy định cụ thể như chính sách của nhà nước về phát triển mỹ thuật, kinh phí dành cho mỹ thuật trong các công trình VHTT&DL. Tiếp sau đó, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư số 18/2013/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2013 quy định chi tiết nhằm hướng dẫn thực hiện các nội dung trong Nghị định số 113. Tuy nhiên trong thời gian còn hiệu lực Thông tư 18 đã bộc lộ một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung như việc cần làm rõ thẩm quyền cấp phép triển lãm mỹ thuật là thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL); Sở Văn hóa, Thể thao

 

(VHTT). Năm 2018, Bộ VHTTDL đã ban hành Thông tư số 01/2018/TT-BVHTTDL quy định quy định chi tiết nhằm hướng dẫn thực hiện các nội dung trong Nghị định số 113/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật. Thông tư này còn hiệu lực đến nay, thay thế cho thông tư số 18/2013/TT-BVHTTDL.

Quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn 2030 được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành theo Quyết định số 1253/QĐ-TTg ngày 25/7/2014. Đây là quy hoạch có tầm nhìn chiến lược, nhiều vấn đề cơ bản cấp thiết và lâu dài cho sự phát triển của ngành Mỹ thuật đến năm 2030. Bộ VHTT&DL đã ra quyết định số 542/QĐ-BVHTTDL ngày 26 tháng 02 năm 2015 ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn 2030. Tuy nhiên việc triển khai, thực hiện quy hoạch còn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu chưa được triển khai thực hiện.

Quy hoạch tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo bằng thông báo số 101/TB-VPCP ngày 26/5/2016. Từ quy hoạch này, các địa phương có thể tham khảo để tiến hành xây dựng quy hoạch tượng đài, tượng ngoài trời, tranh hoàng tráng ở địa phương mình.

Quy hoạch tượng đài Quốc tổ Hùng vương và danh nhân; anh hùng dân tộc đến năm 2035. Hiện Cục đã xây dựng xong đề cương của Quy hoạch, đã gửi xin ý kiến các Bộ, Ban, Ngành các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Hiện nay, Bộ VHTTDL đã ban hành Thông tư số 08/2020/TT-BVHTTDL ngày 10 tháng 11 năm 2020, về việc ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật phần mỹ thuật trong xây dựng công trình tượng đài và phù điêu. Thông tư là căn cứ pháp lý trong công tác quản lý tài chính, thanh quyết toán các công trình mỹ thuật.

Lĩnh vực nhiếp ảnh hiện nay là lĩnh vực có lực lượng người tham gia đông, tính đại chúng cao, phát triển mạnh trong đời sống xã hội. Thông tư số 17/2012/TT-BVHTTDL ngày 27 tháng 12 năm 2012, quy định về triển lãm, thi, liên hoan và sử dụng tác phẩm nhiếp ảnh trước đây đã bộc lộ những bất cập và hiệu lực pháp lý chưa cao, Cục MTNA&TL đã xây dựng, trình Chính phủ ký ban hành Nghị định số 72/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 về hoạt động nhiếp ảnh. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nhiếp ảnh và kịp thời cho hoạt động nhiếp ảnh trong xu thế phát triển hiện nay. Việc ban hành Nghị định số 72/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 về hoạt động nhiếp ảnh đã khẳng định sự quan tâm của Nhà nước, của Chính phủ với lĩnh vực nhiếp ảnh, tạo hành lang pháp lý, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong hoạt động nhiếp ảnh, bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước đối với hoạt động nhiếp ảnh.

 

Hiện nay hoạt động triển lãm với nhiều nội dung và quy mô tổ chức khác nhau diễn ra thường xuyên, liên tục, có xu hướng gia tăng cả về số lượng, nội dung và hình thức triển lãm. Tính trung bình hàng năm, trên cả nước có khoảng 500 cuộc triển lãm với các nội dung và hình thức, các hoạt động triển lãm đã góp phần cung cấp thông tin, giới thiệu, quảng bá, nâng cao hiểu biết về mọi mặt, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, hỗ trợ cho cá nhân, tổ chức trong việc công bố, phổ biến tác phẩm, sản phẩm, kết nối các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Công tác quản lý nhà nước lĩnh vực triển lãm hiện nay vẫn có sự chồng chéo giữa các Bộ, ngành có hoạt động triển lãm. Hiện nay, Cục đang xây dựng Nghị định về hoạt động triển lãm, đang trình xin ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc ban hành Nghị định về hoạt động triển lãm sẽ góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cho lĩnh vực triển lãm, đặc biệt là những nội dung triển lãm chưa có sự điều chỉnh, quy định của Luật thương mại và các Nghị định.

Công tác quản lý nhà nước lĩnh vực MTNA&TL ở các tỉnh, thành phố qua nhìn chung được thực hiện khá nghiêm túc tuân thủ các quy định của pháp luật. Công tác tuyên truyền, phổ biến, triển khai các văn bản quy phạm pháp luật như: Thông tư số 01/2018 về hoạt động Mỹ thuật; Nghị định số 72/2018 về hoạt động nhiếp ảnh; Nghị định số 23/2019 về hoạt động triển lãm cơ bản được thực hiện tốt góp phần giúp các địa phương nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước lĩnh vực MTNA&TL. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số địa phương lúng túng, hiểu chưa đúng, chưa rõ về các quy định của Nghị định, Thông tư trong lĩnh vực quản lý MTNA&TL, vẫn còn có địa phương lúng túng trong việc phân cấp quản lý, cấp giấy phép giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở VHTT&DL; Sở VHTT, một số tỉnh còn buông lỏng quản lý trong cấp phép xây dựng tượng đài có nội dung tôn giáo; xây dựng tượng ngoài trời ở nơi công cộng không có giấy phép, không đạt yêu cầu về chất lượng, thẩm mỹ, một số phòng quản lý nghiệp vụ của Sở VHTT&DL; Sở VHTT chưa xác định được đúng vai trò, trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực MTNA&TL.

Công tác cấp giấy phép các triển lãm mỹ thuật, giấy phép triển lãm nhiếp ảnh là hoạt động quản lý thường xuyên, hàng ngày của Cục MTNA&TL và các Sở VHTT&DL; Sở VHTT trong cả nước. Công tác cấp phép đã được thực hiện khá tốt, đi vào nề nếp và được thực hiện đúng quy trình, quy định; đảm bảo sự nghiêm túc trong nội dung các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh theo đúng đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng và pháp luật của nhà nước. Công tác quản lý cấp giấy phép đã ngăn chặn, loại bỏ được những tác phẩm không phù hợp về chính trị, thuần phong, mỹ tục. Đảm bảo việc đưa đến người xem và xã hội những tác phẩm có nội dung tư tưởng tốt, lành mạnh. Tuy nhiên, công tác cấp giấy phép ở

 

một số địa phương vẫn còn lúng túng chưa xác định đúng trách nhiệm và thẩm quyền giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở VHTT&DL; Sở VHTT; công tác thanh tra kiểm tra các hoạt động triển lãm, các công trình tượng ngoài trời ở nơi công cộng chưa được quan tâm đúng mức.

Công tác hậu kiểm nhiều địa phương chưa làm tốt và chưa thường xuyên. Ngoài ra, vẫn còn một số triển lãm mỹ thuật, triển lãm nhiếp ảnh không xin phép, triển lãm không đúng với nội dung đã xin cấp phép,… hiện tượng tranh giả, tranh nhái vẫn được Sở VHTT&DL; Sở VHTT cấp giấy phép triển lãm như: triển lãm “Những bức tranh trở về từ châu Âu” ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy việc thẩm định trước khi cấp phép cần được chú trọng.

Qua thực tế công tác cấp giấy phép các cuộc triển lãm, đề nghị các địa phương cần phải kiểm tra chặt chẽ và thực hiện chế độ hậu kiểm, đảm bảo việc công bố, phổ biến tác phẩm đến với công chúng, nội dung tư tưởng đúng đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, phù hợp với thuần phong mỹ tục. Đặc biệt là những hoạt động triển lãm ở các thành phố lớn, những trung tâm văn hóa nước ngoài. Các triển lãm có yếu tố nước ngoài cần có sự kiểm tra, hậu kiểm thường xuyên.

Việc báo cáo cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương về tổ chức các cuộc thi, liên hoan mỹ thuật, nhiếp ảnh chưa thực hiện nghiêm túc. Vẫn còn có cuộc thi mỹ thuật, nhiếp ảnh không báo cáo về nội dung, thể lệ của cuộc thi cho cơ quan quản lý. Thẩm định hồ sơ, cấp giấy phép triển lãm; đồng ý hay không đồng ý cho tổ chức các cuộc thi, liên hoan về mỹ thuật, nhiếp ảnh là công tác quản lý nhà nước hàng ngày, thường xuyên của các Sở VHTT&DL; Sở VHTT cần được quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Sở, sự tận tâm của các cán bộ phòng quản lý nghiệp vụ văn hóa, nắm chắc các quy định của Thông tư; Nghị định và các văn bản luật có liên quan như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Dân sự. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hậu kiểm để hoạt động này đi vào nề nếp, đúng pháp luật.

Công tác cấp phép xây dựng các công trình tượng đài, tranh hoàng tráng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Sở VHTT&DL; Sở VHTT là đơn vị thẩm định hồ sơ, tham mưu, đề xuất. Tuy nhiên, ở một số địa phương, cấp Sở làm chưa hết trách nhiệm. Thực tế một số công trình tượng đài xây dựng không phép, chất lượng nghệ thuật còn yếu do không thực hiện đúng quy trình. Nghị định và Thông tư về hoạt động Myax thuyệt, nhiếp ảnh, triển lãm quy định hội đồng nghệ thuật là cánh tay nối dài của cơ quan quản lý giúp chủ đầu tư kiểm soát về chất lượng nghệ thuật. Theo quy định trước khi quyết định thành lập Hội đồng phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của Cục MTNA&TL để đảm bảo đúng

 

thành phần chuyên môn; thành viên đủ năng lực và trình độ, uy tín trong hoạt động nghệ thuật. Tuy nhiên, một số công trình tượng đài, tranh hoàng tráng chưa thực hiện đúng quy định này.

Trong tình hình hiện nay, cần hạn chế xây dựng các tượng đài có quy mô quá lớn, đặc biệt chú trọng đến chất lượng nghệ thuật của tượng đài; công tác quy hoạch tượng đài cần được tiến hành song song với quy hoạch xây dựng của các địa phương.

 

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Trình bày những nội dung cơ bản trong hoạt động quản lí nhà nước về điện ảnh?

2. Phân tích một số nội dung cơ bản trong hoạt động quản lí nhà nước về biểu diễn nghệ thuật?

3. Phân tích một số nội dung cơ bản trong hoạt động quản lí nhà nước về hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm?

4. Trình bày những quy định Nhà nước nghiêm cấm về hoạt động điện ảnh? Lấy ví dụ thực tiễn minh hoạ cụ thể?

5. Vận dụng những quy định Nhà nước nghiêm cấm về hoạt động nghệ thuật biểu diễn? Lấy ví dụ thực tiễn minh hoạ cụ thể?

6. Liệt kê những quy định Nhà nước nghiêm cấm về hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm? Phân tích ví dụ cụ thể về nội dung này?


CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Nhận định và phân tích những khó khăn trong công việc thẩm định tác phẩm điện ảnh?

2. Đánh giá những nội dung quản lý trong quản lý nhà nước về hoạt động mỹ thuật?

3. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động nghệ thuật biểu diễn cần làm gì để quản lý có hiệu quả những chương trình biểu diễn trực tuyến trên internet?

4. Sinh viên tìm hiểu và tổng hợp những chương trình, sự kiện, cuộc thi... có quy mô quốc gia được tổ chức trong năm vừa qua ở một trong số các lĩnh vực: Điện ảnh; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Biểu diễn nghệ thuật; Trình diễn thời trang. Đánh giá kết quả và nhận xét ưu/nhược điểm, nguyên nhân/điều kiện của những kết quả đó?

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 2

[1] Quốc hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật điện ảnh 2009, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2009.

[2] Ban chấp hành TW, ”Báo cáo Kế thừa và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc; Xây dựng, phát triển văn hoá sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; Các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hoá, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, ngày 22 tháng 11 năm 2021 tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc.

[3].Chính phủ nước CHXHCNVN, Quyết định số 2151/2013/QĐ-CP ngày 11/11/2013 ban hành Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020 tầm nhìn 2030”, 2013.

[4]. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 38/2021/NĐ-CPngày 29/3/2021 ban hành Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá và quảng cáo, 2021.

[5]. Chính phủ nước CHXHCNVN, “Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020, Quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn”, 2020.

[6]. N.V.Hy, P.V.Tú, “Quản lý hoạt động văn hoá”. Hà Nội: Nxb Văn hoá thông tin, 1998.

[7]. Chính phủ nước CHXHCNVN, “Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày

14/12/2020 ban hành Nghị định quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn”, 2020.

[8]. Bộ VHTTDL, “Thông tư số 01/2018/TT-BVHTTDL ngày 18/01/2018 ban hành Thông tư quy định chi tiết thi hành một số điều tại nghị định số 113/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật”, 2013.

[10]. Bộ VHTTDL, “Thông tư số 08/2020/TT-BVHTTDL ngày 10/11/2020 Thông tư ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật phần mỹ thuật trong xây dựng công trình tượng đài và phù điêu”, 2020.

 


 

Chương 3

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ XUẤT BẢN, BÁO CHÍ, QUẢNG CÁO


3.1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN

3.1.1. Nhận thức chung về xuất bản

Theo nghĩa rộng xuất bản là hoạt động bao gồm các lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các nguồn lực xã hội trong việc sáng tạo tác phẩm, in nhân bản các phẩm, phổ biến đến nhiều người đạt hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội.

Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế – xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Theo nghĩa hẹp, xuất bản là quá trình tổ chức việc sáng tạo, tác động vào quá trình sáng tạo của tác giả để có bản thảo tác phẩm, xử lý hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu, in thành các xuất bản phẩm nhầm phục vụ nhiều người. Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện tử.

Trong ngành xuất bản có thể hiểu xuất bản phẩm là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản thông qua nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản bằng các ngôn ngữ khác nhau, bằng hình ảnh, âm thanh và được thể hiện dưới các hình thức bao gồm: sách, sách chữ nổi, tranh, ảnh, bản đồ, áp- phích; tờ rời, tờ gấp; các loại lịch; bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách hoặc minh hoạ cho sách theo Luật xuất bản [21].

 

3.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản

Một là, Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển hoạt động xuất bản; ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động xuất bản và bản quyền tác giả trong hoạt động xuất bản [21]. Nhà nước đã ban hành các chính sách về hoạt động xuất bản đó là:

Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực xuất bản: Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn theo quy định; Đặt hàng để có bản thảo và xuất bản tác phẩm, tài liệu phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo, thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thị và các nhiệm vụ trọng yếu khác; Mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; Ưu đãi lãi suất vay vốn theo quy định của pháp luật.

Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực in xuất bản phẩm: Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; Ưu đãi về tiền thuê đất để làm nhà xưởng và lãi suất vay vốn cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.

Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm: Ưu tiên đầu tư quỹ đất và kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống cơ sở phát hành xuất bản phẩm tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; Hỗ trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn theo quy định; Hỗ trợ kinh phí tổ chức hoạt động quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam thông qua xuất bản phẩm; tổ chức triển lãm, hội chợ xuất bản phẩm trong và ngoài nước; Ưu đãi tiền thuê đất, thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước; lãi suất vay vốn đối với cơ sở phát hành xuất bản phẩm.

Chính sách của Nhà nước đối với việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử: Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản để xuất bản xuất bản phẩm điện tử; Xây

 

dựng hệ thống thông tin dữ liệu đặc tả của xuất bản phẩm điện tử nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm, truy nhập, quản lý và lưu trữ xuất bản phẩm điện tử.

Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất bản đã được ban hành đang có hiệu lực và là công cụ QLNN được áp dụng là Thông tư 01/2020/TT- BTTTT Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản.

Hai là, Tổ chức đọc, kiểm tra, thẩm định xuất bản phẩm lưu chiểu Ba là, Cấp và thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động xuất bản

Bốn là, Nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong hoạt động xuất bản; đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về hoạt động xuất bản.

Năm là, Hợp tác quốc tế trong hoạt động xuất bản

Sáu là: Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản.

Những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất bản được quy định tại Điều 10 - Luật Xuất bản bao gồm: Thứ nhất, nghiên cấm việc xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm có nội dung sau đây: Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; Tiết lộ bí mật nhà nước, kích động bạo lực, truyền bá tư tưởng phản động, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục…Thứ hai, nghiêm cấm thực hiện các hành vi sau đây: xuất bản mà không đăng ký, không có giấy phép xuất bản, thay đổi sai lệch nội dung bản thảo đã được duyệt, in lậu, in giả, in nối bản trái phép, phát hành xuất bản phẩm không có nguồn gốc hợp pháp hoặc chưa nộp lưu chiểu…[21].

Bảy là, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác thi đua, khen thưởng trong hoạt động xuất bản; tuyển chọn và trao giải thưởng đối với xuất bản phẩm có giá trị cao.

3.1.3. Thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản

Trong 6 tháng đầu năm 2020 các nhà xuất bản (NXB) đăng ký xuất bản hơn

39.000 tên xuất bản phẩm với hơn 1 tỷ bản. Số xuất bản phẩm được làm và nộp lưu chiểu là hơn 17.000, với trên 250 triệu bản (tăng gần 44% số bản so với cùng kỳ 2018). Bên cạnh việc phục vụ nhu cầu đọc của xã hội với nhiều đối tượng khác nhau, các nhà xuất bản đã xuất bản được nhiều xuất bản phẩm phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của các ngành, địa phương.

 

Tuy nhiên, bên cạnh những chỉ số tăng trưởng, thành tựu đạt được, các cơ quan quản lý, nhà xuất bản cũng thừa nhận trong lĩnh vực xuất bản vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm chưa được giải quyết như: đăng ký đề tài không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của NXB; đăng ký xuất bản ấn phẩm thuộc loại hình báo chí, không phải xuất bản phẩm; tên đề tài không phù hợp với tóm tắt nội dung; tóm tắt nội dung không rõ ràng hoặc trích nguyên tên sách vào phần tóm tắt nội dung; viết tắt hoặc thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác về tác giả, dịch giả, số lượng in, đối tác liên kết. Điều này gây khó khăn, lãng phí cho cơ quan quản lý nhà nước và NXB.

Những sai phạm nổi cộm trong lĩnh vực xuất bản như một số nhà xuất bản buông lỏng quản lý dẫn đến vi phạm về nội dung. Qua công tác quản lý cho thấy, vi phạm nội dung sách có những chi tiết không khách quan. Nhiều xuất bản phẩm viết về các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nhồi da xáo thịt; nhận định sai lệch về người chiến sĩ cách mạng.

Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách đề cập đến một số vấn đề, sự kiện liên quan đến chính trị không khách quan hoặc sự ám chỉ mang tính tiêu cực đối với một số vấn đề chính trị. Nhận định thiếu khách quan, chưa được kiểm chứng đối với những vấn đề khoa học; những vấn đề về chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và công tác của các cán bộ lãnh đạo cấp cao. Thông tin không chính xác về các sự kiện lịch sử cũng như thời gian và các địa danh. Có những nhận định không phù hợp về đời sống xã hội, về lịch sử, chính sách tôn giáo, về mối quan hệ của các nước trên thế giới.

Một số cuốn sách có nội dung mang tính tranh luận, trao đổi, chưa được kiểm chứng, chỉ dừng ở mức độ là tài liệu tham khảo cho một số đối tượng bạn đọc nhất định nhưng lại được NXB phổ biến rộng rãi, gây hoang mang cho người đọc. Miêu tả quan hệ luyến ái dung tục hoặc lạm dụng tình yêu đồng tính, làm lệch lạc đến nhận thức của bạn đọc trẻ. Sách có những chi tiết miêu tả cảnh giết người ghê rợn hoặc sử dụng ngôn từ thô tục, phản cảm. Một số xuất bản phẩm dành cho thiếu nhi nhưng nội dung có thông tin về một số quốc gia chưa chính xác về quốc kỳ, thủ đô hoặc đưa hình ảnh minh họa không phù hợp.

Ngoài ra sai sót về câu chữ, chính tả, thông tin phải ghi trên xuất bản phẩm còn xảy ra nhiều. Bên cạnh đó việc thực hiện không nghiêm túc quy định về bản quyền, dẫn đến hiện tượng tranh chấp, khiếu nại kéo dài.

Trong những năm qua, việc xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, các cơ quan quản lý Nhà nước về xuất bản cũng từng bước đẩy

 

mạnh việc thực hiện cải cách hành chính, xây dựng được nhiều mô hình mới, chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào cải cách thủ tục hành chính (TTHC) để giảm tối đa thời gian, chi phí của các NXB, doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm và các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản.

Mặc dù vậy, trước những yêu cầu, đòi hỏi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) cùng quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản, phát hành tiếp tục cần được cải cách, chuyển đổi sâu sắc hơn nữa.

Các cơ quan chỉ đạo, quản lý Nhà nước cần xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách phù hợp với tính đặc thù của ngành và yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn trong cuộc CMCN 4.0 để giúp ngành xuất bản không ngừng phát triển mạnh mẽ theo kịp sự phát triển của khu vực và thế giới.

Xuất bản là một trong những ngành chịu tác động sâu sắc của CMCN 4.0. Nó mở ra những cơ hội và tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức. Về cơ hội, cuộc cách mạng 4.0 giúp NXB tiếp nhận phong phú nguồn bản thảo, đa dạng về đầu vào. Biên tập viên thuận tiện trong tra cứu, kiểm chứng thông tin, bộ phận in ấn nhanh hơn. Từ đó giúp NXB giảm thiểu nhân lực, tăng hiệu quả. Về thách thức, thời nay, các tác giả chủ động tiếp cận độc giả qua Internet, tác động trực diện tới hoạt động các NXB.

Luật Xuất bản 2012 là căn cứ tốt để triển khai, là động lực xuất bản phát triển. Xuất bản điện tử là vấn đề cần tập trung trong thời gian tới. Về đầu tư hỗ trợ xuất bản nên xem xét theo phương pháp Nhà nước và nhân dân cùng làm. Nhiều dự án xuất bản khác cũng đang xem xét triển khai; Về việc đưa sách Việt Nam đến với thế giới thông qua những hội chợ sách quốc tế như Frankfurt, Cục Xuất bản đã và dang nỗ lực với nhiều hoạt động để biến khát vọng vươn tầm thế giới của sách Việt trở thành hiện thực.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông và các công tác để thúc đẩy văn hóa đọc. Đồng thời, cần đưa những ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động xuất bản, để làm sao mỗi người dân sẽ dành quyền được kiểm soát chất lượng xuất bản phẩm, thu được thông tin và hàm lượng tri thức thông qua văn hoá đọc.

3.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ

3.2.1. Nhận thức chung về báo chí

3.2.1.1. Quan niệm về báo chí

Báo chí theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân lao động. Theo quan điểm này, Luật báo chí, 2016 quy định: Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử [23].

Hoạt động báo chí là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; cung cấp thông tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải chính thông tin trên báo chí; xuất bản, in, phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dân, phát sóng báo nói, báo hình.

Cách quan niệm này coi hoạt động báo chí giống với hoạt động nghiệp vụ báo chí. Tuy nhiên, để nghiên cứu hoạt động báo chí với tính chất là một nội dung của quản lý nhà nước cần phải quan niệm hoạt động báo chí giống với hoạt động nghiệp vụ báo chí. Tuy nhiên, để nghiên cứu hoạt động báo chí với tính chất làm một nội dung của quản lý nhà nước cần phải quan niệm hoạt động báo chí là hoạt động của các chủ thể có vai trò quyết định trong đời sống báo chí. Đó là hoạt động thông tin của các cơ quan báo chí Việt Nam, đại diện báo chí Việt Nam ở nước ngoài, đại diện báo chí nước ngoài và phóng viên nước ngoài tại Việt Nam.

Sản phẩm của hoạt động báo chí là các tác phẩm báo chí đến với công chúng. Tác phẩm báo chí bao gồm nhiều loại hình phong phú như tin tức, bài báo, tư liệu… tồn tại trên những ấn phẩm in, ảnh, phát thanh, truyền hình, báo điện tử. Mỗi tác phẩm là một văn bản trong đó có chứa đựng những thông tin nhằm thông báo đến với công chúng. Với đặc điểm này, hoạt động báo chí, xét về bản chất, là hoạt động thông tin đại chúng và là một lĩnh vực văn hoá được sự quản lý của Nhà nước.

3.2.1.2. Các loại hình thức và chức năng báo chí

* Các loại hình báo chí:

Báo in: là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in.

Báo hình: là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, âm thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau.

 

Báo nói: là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau.

- Báo điện tử: là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh được truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử.

* Chức năng của báo chí:

Chức năng thông tin;

Chức năng là công cụ của Đảng và Nhà nước trong nhiệm vụ đối nội và đối ngoại (tính Đảng);

Chức năng xây dựng xã hội, bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, tuyên truyền lối sống mới;

Chức năng văn hóa và nghệ thuật; Chức năng đào tạo, giáo dục;

Chức năng phục vụ công tác quản lý và phát triển sản xuất; Chức năng giải trí.

3.2.1.3. Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.

Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.

Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.

Cục báo chí: là cơ quan của bộ thông tin truyền thông chịu trách nhiệm giúp bộ trưởng bộ thông tin truyền thông thống nhất quản lý nhà nước về sự nghiệp báo chí bao gồm: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử và các nhà cung cấp nội dung thông tin (ICP) và các trang điện tử (Website) trên mạng (internet) theo quy định của pháp luật.

Bộ ngoại giao: Phát ngôn quan điểm, lập trường chính thức của Việt Nam vì các vấn đề quốc tế; tổ chức các cuộc họp báo quốc tế và chuẩn bị nội dung trả lời phỏng vấn của lãnh đạo cấp cao của đảng và nhà nước cho phóng viên nước ngoài thường kỳ hoặc theo yêu cầu đột xuất. Chủ trì việc theo dõi, tổng hợp dư luận báo chí nước ngoài liên quan đến Việt Nam; theo dõi tình hình và triển khai các hoạt động thông tin đối ngoại ở nước ngoài; quản lý và cấp phép cho hoạt động báo chí của phóng viên nước ngoài tại Việt Nam. Quản lý và giải quyết các hoạt động thông tin báo chí của các đoàn đại biểu nước ngoài thăm Việt Nam theo lời mời của lãnh đạo nhà nước, chính phủ và Bộ Ngoại giao. Quản lý và cấp phép đối với các hoạt động báo chí của phóng viên nước ngoài và văn phòng báo chí nước ngoài thường trú tại Việt Nam.

Vụ thông tin báo chí của bộ ngoại giao: là cơ quan chịu trách nhiệm giúp bộ trưởng bộ ngoại giao thực hiện các nội dung liên quan đến hoạt động báo chí nói trên.

Ủy ban nhân dân tỉnh cấp tỉnh: thực hiện quản lý nhà nước về báo chí trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính Phủ: Xây dựng dự án quy hoạch phát triển báo chí địa phương theo hướng dẫn của bộ thông tin truyền thông. Kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ với báo chí đối với cơ quan báo chí của địa phương. Tổ chức thanh tra hoặc phối hợp kiểm tra, xử lý vi phạm ngoài tại địa phương mình theo quy định của pháp luật.

Sở thông tin truyền thông: là cơ quan chuyên môn giúp việc vì uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố thực hiện chức năng quản lý về báo chí trên địa bàn.

Sở ngoại vụ: phối hợp với sở thông tin truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động báo chí của các tổ chức nước ngoài được phép hoạt động trên địa bàn địa phương.

3.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về báo chí

Một là, xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí.

Hai là, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí.

Một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đã ban hnhf và còn hiệu lực áp dụng: Luật Báo chí - Luật số 103/2016/QH13 ngày 05 tháng 4 năm 2016 của Quốc hội; Ngày 07/10/2020, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 119/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản thay thế Nghị định số 159/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản; Ngày 24/12/2020, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ký ban hành Thông tư số 41/2020/TT-BTTTT quy định chi tiết và hướng dẫn việc cấp giấy phép hoạt động báo in, tạp chí in và báo điện tử, tạp chí điện tử, xuất bản thêm ấn phẩm, thực hiện hai loại hình báo chí, mở chuyên trang của báo điện tử và tạp chí điện tử, xuất bản phụ trương, xuất bản bản tin, xuất bản đặc san; Quyết định 1659/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ tăng cường năng lực sản xuất chương trình truyền hình tiếng dân tộc giai đoạn 2021-2025; Quyết định 1321/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Một số chính sách của Nhà nước về phát triển báo chí Việt Nam hiện nay: Có chiến lược, quy hoạch phát triển và quản lý hệ thống báo chí; Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm trong các lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nhân lực về chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý hoạt động báo chí, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ hiện đại cho các cơ quan báo chí; Đặt hàng báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thính, khiếm thị, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ trọng yếu khác phù hợp với từng giai đoạn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Hỗ trợ cước vận chuyển báo chí phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ trọng yếu khác phù hợp với từng giai đoạn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

Ba là, Tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông tin của báo chí.

Bốn là, Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí.

Năm là, Tổ chức quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí. Sáu là, Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động báo chí và thẻ nhà báo.

Bảy là, Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam.

Tám là, Kiểm tra báo chí lưu chiểu; quản lý hệ thống lưu chiểu báo chí quốc gia.

Chín là, Chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí.

Mười là, Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí. Những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí được quy định tại Điều 9 - Luật Báo chí 2016 (từ khoản 1 đến khoản 13) khái quát các hành vi bị nghiêm cấm sau: Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , gây chia rẽ nhân dân với chính quyền, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị…; phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc; Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; Kích động bạo lực, thông tin không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt

 

Nam; Cản trở việc in, phát hành, truyền dẫn phát sóng sản phẩm báo chí hợp pháp tới công chúng; Đe doạ, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên…[23].

3.2.3. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước trong hoạt động báo chí

Hiện nay, báo chí nước ta có sự phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức, từng bước đổi mới để thích ứng với xu thế phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, báo chí đã có những đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới đất nước.

Hiện nay, nền báo chí cách mạng Việt Nam có đội ngũ những người làm báo hùng hậu, đông đảo với khoảng 50.000 người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí); gần 1.000 cơ quan báo chí thuộc 04 loại hình báo chí: báo in, phát thanh, truyền hình và báo điện tử, trong đó có 165 cơ quan báo, 663 tạp chí, 23 cơ quan báo điện tử độc lập, 02 đài phát thanh - truyền hình quốc gia, 01 hãng thông tấn quốc gia, 63 đài phát thanh - truyền hình địa phương [25]. Đa số các cơ quan báo chí đều đang nỗ lực để sử dụng được sức mạnh công nghệ làm báo mới; tỉ lệ người làm báo có trình độ đại học và trên đại học là 95,9%. Báo chí đã trở thành lực lượng hùng hậu, thông tin nhanh nhạy, toàn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội (KT-XH) ở trong nước và quốc tế; là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội, là diễn đàn của nhân dân [25].

Báo chí đã thực hiện tốt sứ mệnh cung cấp thông tin, phục vụ nhu cầu thông tin kinh tế - xã hội đối với người dân. Trong xu thế phát triển của kinh tế - văn hóa - xã hội, phát huy dân chủ và hội nhập quốc tế, báo chí Việt Nam đang ngày càng phát huy vai trò trong việc thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cổ vũ, động viên những gương điển hình tiên tiến, nhân tố tích cực trong sản xuất và chiến đấu, góp phần quan trọng thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Xã hội càng hiện đại, việc phổ biến thông tin trên quy mô đại chúng càng trở nên quan trọng và sự phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các phương tiện thông tin đại chúng và xã hội càng trở nên chặt chẽ. Theo số liệu điều tra của Ban Tuyên giáo Trung ương, trên 70% người dân đã tiếp nhận được những kiến thức về đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua báo chí, thông tin đại chúng.

Thực hiện tốt chức năng tư tưởng, báo chí nước ta đã chủ động, tích cực và có nhiều sáng tạo, góp phần vào việc truyền bá, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Bên cạnh khẳng định những thành tựu to lớn, toàn diện của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo trên các lĩnh vực chính trị, KT-XH, quốc phòng - an ninh và đối ngoại, báo chí còn đi đầu trong đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân, tệ nạn xã hội; phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch,… Qua đó, góp phần quan trọng vào công tác tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về xây dựng CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, báo chí nước ta đã quan tâm, xử lý tốt mối quan hệ giữa tính định hướng chính trị, tư tưởng và việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng; phát huy được vai trò, vị thế trong việc thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng, dư luận xã hội.

Những năm qua, trong bối cảnh khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới và những yếu kém nội tại của nền kinh tế đất nước, báo chí đã tích cực thông tin, tuyên truyền có hiệu quả các nghị quyết, kết luận, các giải pháp chỉ đạo, điều hành KT-XH của Đảng và Nhà nước; đồng thời, thể hiện rõ vai trò là một giải pháp tư tưởng quan trọng trong các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước. Báo chí, một mặt, làm cho công chúng và xã hội thấy rõ thực trạng tình hình, nhận thức được những khó khăn, thách thức; mặt khác, tạo sự tin tưởng, đồng thuận với sự chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân ta nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, góp phần tích cực vào những kết quả quan trọng trong phát triển KT-XH của đất nước.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, nhất là tình hình Biển Đông hiện nay, báo chí đã đi đầu trong công tác thông tin, tuyên truyền, khẳng định cơ sở pháp lý, bằng chứng lịch sử về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam; phê phán, phản đối mạnh mẽ hành động sai trái, phi pháp của nước ngoài, âm mưu lợi dụng của các thế lực thù địch. Đồng thời, khơi dậy lòng yêu nước, ý thức chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích chính đáng của dân tộc đối với các tầng lớp nhân dân; khẳng định tính đúng đắn trong chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về việc giải quyết các vấn đề trên biển bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở đạo lý, luật pháp quốc tế; góp phần xây dựng quyết tâm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc gắn với giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực để xây dựng và phát triển đất nước.

Hệ thống báo chí, truyền thông đã góp phần to lớn vào việc tổ chức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực sự đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, khoa học, kỹ thuật, bảo vệ Tổ quốc.

Báo chí đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, nâng cao vị thế, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế; củng cố, mở rộng quan hệ của Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập, thu hút đầu tư và du khách nước ngoài vào Việt Nam; tăng cường gắn kết, vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Hệ thống báo chí góp phần quan trọng vào việc mở rộng dân chủ, tăng cường sự giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng như phát huy vai trò của Nhân dân trong việc tham gia trực tiếp vào quản lý phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề dân sinh. Đặc biệt, báo chí, truyền thông đã trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tệ nạn xã hội. Thời gian qua, hơn 70% các vụ việc tham nhũng, lãng phí được phát hiện, xử lý là do báo chí, truyền thông phát hiện. Thông qua phản ánh dư luận xã hội, các hoạt động truyền thông báo chí đã góp phần tích cực ngăn chặn các hiện tượng, vụ việc tiêu cực trong xã hội, có tác dụng giáo dục cán bộ, đảng viên và Nhân dân thực hành lối sống kỷ cương, trong sáng, nghiêm túc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước [25].Bám sát sự kiện, thông tin nhanh nhạy, phân tích trúng vấn đề trọng điểm và định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận rõ ràng, các cơ quan thông tấn, báo chí đã thực hiện tốt chức năng phản biện, mang lại hiệu quả xã hội rõ rệt.

Báo chí đang thực sự trở thành trường học xã hội trong việc giáo dục nâng cao hiểu biết, trình độ nhận thức cho người dân, tôn vinh các giá trị dân tộc, nhân văn tốt đẹp trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam; trở thành cầu nối mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân; giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân tiến bộ trên thế giới, góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc, hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các cơ quan báo chí đang đối diện với nhiều hạn chế, khó khăn, thách thức.

Nhìn tổng thể, việc quy hoạch phát triển hệ thống báo chí còn một số bộ phận chưa hợp lý, chồng chéo, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Một số cơ quan báo chí chưa theo kịp với tốc độ phát triển công nghệ thông tin, với cách làm báo hiện đại, nội dung chưa thực sự hấp dẫn người đọc. Một số cơ quan báo chí còn quá tập trung khai thác thông tin các mặt tiêu cực mà chưa chú ý đúng mức việc phát hiện, cổ vũ, nhân rộng những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, những mặt tích cực của đời sống xã hội. Thậm chí, có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích; chưa làm tốt chức năng định hướng tư tưởng và dư luận xã hội, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, chăm lo xây dựng con người. Những thông tin này là nguyên nhân gây nhiễu về tư tưởng, văn hóa, ảnh hưởng xấu đến sự đồng thuận trong nhân dân.

Sự phát triển của xã hội hiện đại đang tác động mạnh mẽ, dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng các thói quen của độc giả. Báo chí đang phải đối diện với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, những phát minh mới về khoa học và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là các phương thức cung cấp thông tin trên các trang mạng xã hội thông qua việc nghiên cứu, thống kê “dữ liệu lớn”, sàng lọc, cung cấp thông tin theo nhu cầu, thị hiếu từng cá nhân người dùng, người đọc.

Trong khi đó, lòng tin của công chúng vào báo chí có xu hướng giảm sút đáng lo ngại. Lý do là có một lượng nhỏ thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay thiếu trung thực, phiến diện một chiều, thậm chí là xuyên tạc, sai sự thật; một số tờ báo, một số người làm báo, đôi khi để thu hút bạn đọc đã sử dụng những thủ thuật giật tít bài hoặc đưa tin những nội dung thu hút người đọc không chính xác. Ví dụ như, chỉ tập trung vào một vài hiện tượng tiêu cực, nói đi, nói lại một số vụ án, thông tin mặt trái tạo ra bức tranh sai lệch về bản chất và mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội.

Bên cạnh đó, tình trạng yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu trách nhiệm xã hội và vi phạm đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận người làm công tác báo chí; lãnh đạo một số cơ quan báo chí buông lỏng quản lý nội dung thông tin; công tác quản lý đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên chưa được quan tâm đúng mức; coi trọng chức năng giải trí, chạy theo lợi ích kinh tế mà xem nhẹ các chức năng định hướng, giáo dục và thẩm mỹ của báo chí; thậm chí có nơi, có lúc còn lợi dụng báo chí để mưu lợi cá nhân, lợi ích nhóm đã và đang diễn ra trong thực tế, làm ảnh hưởng đến niềm tin của xã hội đối với báo chí.

Trước nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân ngày càng đa dạng, phong phú, nhiệm vụ đặt ra cho ngành báo chí trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới là rất quan trọng, đòi hỏi các cơ quan báo chí phải thực sự phát huy vai trò, sứ mệnh cách mạng của mình, không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng các sản phẩm báo chí cả hình thức và nội dung cũng như thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm đối với xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Một số cơ quan báo chí chưa thực hiện tốt chức năng tư tưởng, văn hóa; nhiều sản phẩm báo chí tiếp tục chạy theo xu hướng giật gân, câu khách, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng, nhất là trong các ấn phẩm phụ, số chuyên đề, báo điện tử. Thông tin thiếu chuẩn xác, thiếu nhạy cảm chính trị, vi phạm bản quyền có chiều hướng gia tăng. Việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống báo chí vẫn còn những bất cập, dẫn đến trùng lắp về nội dung, phân tán, lãng phí về nhân lực, tài chính, nhất là trong lĩnh vực truyền hình. Vai trò của nhiều cơ quan chủ quản chưa phát huy đúng mức, thiếu quan tâm, buông lỏng quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền. Công tác cán bộ của một số cơ quan báo chí chưa được chăm lo thường xuyên, toàn diện; một số trường hợp do chưa nắm bắt, giải quyết kịp thời diễn biến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nên để xảy ra những sự cố đáng tiếc. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí tuy có tiến bộ, nhưng chưa thật gắn với thực tiễn, còn nặng về lý thuyết, thiếu, yếu về kỹ năng tác nghiệp,… Những hạn chế, khuyết điểm này đã làm giảm tính chính trị, tính văn hóa, tính giáo dục của báo chí cách mạng.

Có nhiều nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên. Trong đó, một phần là do sự vận động, phát triển nhanh chóng của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; sự tác động của quá trình toàn cầu hóa thông tin, sự “bùng nổ” các phương tiện truyền thông trên in-tơ-nét dẫn đến những thay đổi to lớn của đời sống xã hội, truyền thông, làm cho công tác lãnh đạo, quản lý báo chí gặp nhiều khó khăn, nhiều khi còn lúng túng. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng mọi phương tiện truyền thông, thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa để chống phá cách mạng nước ta. Phần khác, là công tác chỉ đạo, quản lý, quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí của cơ quan chỉ đạo, quản lý ở Trung ương và địa phương còn nhiều hạn chế; cơ chế, chính sách, hệ thống văn bản pháp luật còn thiếu và bất cập; một số nội dung của Luật Báo chí không còn phù hợp với thực tiễn. Cùng với đó, một số lãnh đạo cơ quan báo chí chưa chấp hành nghiêm kỷ luật thông tin, có trường hợp tìm cách né tránh việc thực hiện các quy định. Do chạy theo lợi nhuận, không ít cơ quan báo chí thực hiện liên kết nhưng không quản lý tốt nội dung thông tin, gây nên những hạn chế, thiếu sót, vi phạm quy định của pháp luật, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng nội dung thông tin báo chí. Không ít cơ quan chủ quản còn nể nang, thiếu kiên quyết trong xử lý vi phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ, phóng viên, biên tập viên hạn chế về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, tư duy chính trị, thiếu tinh thần trách nhiệm, nhận thức không sâu về tính đặc thù của báo chí với tư cách là sản phẩm hàng hóa đặc biệt nên không nghiêm túc trong việc quán triệt, tuân thủ sự chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền, thậm chí có người phai nhạt lý tưởng dẫn đến tha hóa về chính trị, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.

Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh thế giới đầy biến động, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những yếu tố tiêu cực của hội nhập quốc tế, đặc biệt là những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới cùng với những khó khăn trước mắt về KT-XH trong nước, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các mặt đời sống xã hội. Âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam không thay đổi; trong khi đó, những biểu hiện xa rời lý tưởng, mục tiêu CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi, đang tác động làm xói mòn lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ XHCN. Vì thế, hơn lúc nào hết, báo chí cần tiếp tục giữ vững, phát huy cao độ bản chất cách mạng, là công cụ công tác tư tưởng của Đảng, là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; hoạt động theo định hướng của Đảng, tham gia tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và con đường đi lên CNXH của nhân dân ta. Đồng thời, phát huy tính tiên phong trong việc tập hợp, đoàn kết, cổ vũ các giai tầng xã hội tích cực tiến hành thắng lợi công cuộc CNH,HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước. Những yêu cầu khách quan đó, đòi hỏi hoạt động báo chí phải hướng vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, từng bước xây dựng con người mới, lối sống mới, làm cho những nguyên lý cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Phát huy vai trò của báo chí cách mạng và tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tình hình hiện nay.

3.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUẢNG CÁO

3.3.1. Nhận thức chung về quảng cáo

Quảng cáo là việc nhằm sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; Tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân [26].

Dịch vụ có mục đích sinh lợi là dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ; dịch vụ không có mục đích sinh lợi là dịch vụ vì lợi ích của xã hội không nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ.

Sản phẩm quảng cáo bao gồm nội dung và hình thức quảng cáo được thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, giữa lượng màu sắc, ánh sáng và các hình thức tương tự.

Xúc tiến quảng cáo là hoạt động tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội ký hợp đồng dịch vụ quảng cáo.

Người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có yêu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc bản thân tổ chức, cá nhân đó.

Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo là tổ chức, cá nhân thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình quảng cáo theo hợp đồng cung ứng dịch vụ quảng cáo với người quảng cáo.

Người phát hành quảng cáo là tổ chức, cá nhân dùng phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm quản lý của mình giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến công chúng, bao gồm cơ quan báo chí, nhà xuất bản, chủ trang thông tin điện tử, người tổ chức chương trình văn hóa, thể thao và tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện quảng cáo khác.

Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo là người trực tiếp đưa các sản phẩm quảng cáo đến công chúng hoặc thể hiện sản phẩm quảng cáo trên người thông qua hình thức mặc, treo, ảnh, dán, vẽ hoặc các hình thức tương tự.

Người tiếp nhận quảng cáo là người tiếp cận thông tin từ sản phẩm quảng cáo qua phương tiện quảng cáo.

Thời lượng quảng cáo là thời gian phát sóng các sản phẩm quảng cáo trong một kênh, chương trình phát thanh, truyền hình. Thời gian quảng cáo trong tuần thời gian cùng một chương trình văn hóa, thể thao; thời gian quảng cáo trong một bản ghi âm, ghi hình và các thiết bị công nghệ khác.

Diện tích quảng cáo là phần thể hiện các sản phẩm quảng cáo trên mặt báo in, báo hình, báo điện tử, trang thông tin điện tử, xuất bản phẩm, bảng quảng cáo, phương tiện giao thông hoặc trên các phương tiện quảng cáo tương tự.

Sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt là sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người và môi trường.

Màn hình trên quảng cáo là phương tiện quảng cáo sử dụng công nghệ điện tử để chuyển tải các sản phẩm quảng cáo, bao gồm màn hình LED, LCD và các hình thức tương tự.

3.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo

Một là, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động quảng cáo.

Một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo đã được ban hành và còn hiệu lực: Thông tư số 5699/2018/VBHN-BVHTTDL, ngày 18 tháng 12 năm 2018, ban hành Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của luật quảng cáo và nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều luật quảng cáo; Nghị định số 38/2021/NĐ- CP ngày 9 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá và quảng cáo.

Một số chính sách của Nhà nước đối với hoạt động quảng cáo: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động quảng cáo; Tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân phát triển các loại hình quảng cáo, nâng cao chất lượng quảng cáo; Khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại vào việc thiết kế, xây dựng sản phẩm quảng cáo, đầu tư có hiệu quả vào quảng cáo; Tạo điều kiện và khuyến khích phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động quảng cáo; ưu tiên đầu tư đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, công chức thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo;

Hai là, Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển hoạt động quảng cáo, quy hoạch quảng cáo ngoài trời.

Ba là, Phổ biến, giáo dục pháp luật về hoạt động quảng cáo.

Bốn là, Chỉ đạo hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong hoạt động quảng cáo.

Năm là, Chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho hoạt động quảng cáo.

Sáu là, Tổ chức thực hiện công tác khen thưởng trong hoạt động quảng cáo. Bảy là, Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quảng cáo.

Tám là, Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong hoạt động quảng cáo.

Những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo được qui định tại Điều 7 và Điều 8 - Luật Quảng cáo 2012.

 

Trong đó, điều 7 quy định sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo bao gồm: Hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật; Thuốc lá; Rượu có nồng độ cồn từ 15 độ trở lên; Sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, sản phẩm dinh dưỡng bổ sung dùng cho trẻ dưới 06 tháng tuổi; bình bú và vú ngậm nhân tạo; Thuốc kê đơn; thuốc không kê đơn nhưng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khuyến cáo hạn chế sử dụng hoặc sử dụng có sự giám sát của thầy thuốc; Các loại sản phẩm, hàng hóa có tính chất kích dục; Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao và các loại sản phẩm, hàng hóa có tính chất kích động bạo lực; Các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo khác do Chính phủ quy định khi có phát sinh trên thực tế.

Tại điều 8 quy định hành vi cấm trong hoạt động quảng cáo: Quảng cáo những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ quy định tại Điều 7 của Luật này; Quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh, quốc phòng;  Quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; Quảng cáo làm ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị, trật tự an toàn giao thông, an toàn xã hội; Quảng cáo gây ảnh hưởng xấu đến sự tôn nghiêm đối với Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Đảng kỳ, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước; Quảng cáo có tính chất kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, định kiến về giới, về người khuyết tật; Quảng cáo xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân; Quảng cáo có sử dụng hình ảnh, lời nói, chữ viết của cá nhân khi chưa được cá nhân đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố.Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức, cá nhân khác. Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh. Quảng cáo vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ; Quảng cáo tạo cho trẻ em có suy nghĩ, lời nói, hành động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục; gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, an toàn hoặc sự phát triển bình thường của trẻ em…[26].

3.3.3. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước trong hoạt động quảng cáo

Luật Quảng cáo 2012 cùng Nghị định 181/2013/NĐ-CP và Thông tư 5699/VBHN-BVHTTDL của Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch hướng dẫn hoạt động quảng cáo ra đời đã khiến hoạt động quảng cáo có những chuyển hướng tích cực.

Tuy nhiên, ngành công nghiệp quảng cáo của Việt Nam hiện nay được đánh giá là vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển đó là những quy định còn bất cập của hệ thống pháp luật.

Trong Luật Quảng cáo cũng như các văn bản pháp luật khác điều chỉnh hoạt động quảng cáo có nhiều quy định mang tính chất là luật khung, không cụ thể. Vì thiếu các quy định chi tiết nên trong quá trình triển khai và thực hiện đã gây ra nhiều khó khăn và lúng túng cho cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý. Cơ quan thi hành pháp luật đôi khi hành xử không theo quy chuẩn chung vì thiếu những căn cứ pháp lý, còn doanh nghiệp thì từ tính không cụ thể, rõ ràng đó để tìm cách “lách luật”.

Do đó, theo tinh thần xây dựng luật hiện nay, cần phải hạn chế tối đa các quy định như vậy, tránh tình trạng có luật nhưng vẫn không thi hành được, cụ thể, cần chi tiết hơn các quy định như quyền và nghĩa vụ của người kinh doanh dịch vụ quáng cáo, người phát hành quảng cáo, hình thức quảng cáo, phương tiện quảng cáo, những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quảng cáo...

Do sự không nhất quán về thẩm quyền quản lý hoạt động quảng cáo mà trong việc thi hành các văn bán pháp luật, cả phía doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý đều lúng túng. Hơn thế, hoạt động quảng cáo còn phải chịu sự quản lý của nhiều lĩnh vực khác như báo chí, giao thông, xây dựng... mà mỗi lĩnh vực lại có luật riêng điều chỉnh. Chính vì chịu sự quản lý của nhiều ngành luật như vậy nên thực tế triển khai việc quản lý hoạt động quảng cáo đã nảy sinh nhiều vấn đề. Có thể kể đến các vi phạm như sau:

Quảng cáo vi phạm nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mục tiêu của nhà sản xuất khi quảng cáo là để thúc đẩy hoạt động kinh doanh, làm cho người mua tiếp cận với sản phẩm của mình. Tuy nhiên, vì chạy theo lợi nhuận, nhiều nhà sản xuất, nhà bán hàng đã tạo nên những quảng cáo thổi phồng sự thật, nhằm mục đích gây nhầm lẫn hay cố tình lừa dối người tiêu dùng. Tại Việt Nam, sự vi phạm này trong những năm qua thường biểu hiện dưới một số hình thức cụ thể như:

Thứ nhất, nội dung quảng cáo không rõ ràng. Biểu hiện của quảng cáo với nội dung không rõ ràng là việc bỏ sót một số thông tin quan trọng trong thông tin quáng cáo nhằm gây nhầm lẫn cho khách hàng. Bản chất của quảng cáo là chỉ đưa thông tin cơ bản của sản phẩm cho người mua, khách hàng nên đến tận nơi để liên hệ, kiểm chứng thông tin. Về lâu dài, nếu những quảng cáo che đậy thông tin quan trọng, dễ gây hiểu lầm, khiến khách hàng cảm giác như bị lừa dối thì chính doanh nghiệp kinh doanh sẽ chịu thiệt thòi về uy tín.

Thứ hai, quảng cáo phóng đại hoặc không đúng sự thật. Trên thị trường có thể dễ dàng bắt gặp những quảng cáo phóng đại về công dụng của sản phẩm... Ví dụ như một sản phẩm có hàng tá chức năng nhưng thực tế chỉ có chức năng chính là hiệu quả, hay quảng cáo với hình ảnh phóng đại rồi có dòng chữ “hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa” vô cùng bé và khó nhìn nhằm đánh lừa thị giác người mua... Đặc biệt, trong lĩnh vực quảng cáo bất động sản, “Sang trọng, hiện đại, tiện nghi, cuộc sống mơ ước...” là những mỹ từ mà phần lớn chủ đầu tư dự án tự nhận là chung cư cao cấp khi quảng cáo được tung ra nhưng khi nhận nhà, khách hàng lại phải sống trong căn hộ nhanh xuống cấp, dịch vụ kém.

Quảng cáo vi phạm nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh. Cạnh tranh là một hoạt động tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trên thực tế không ít trường hợp vì tranh giành thị phần mà một số doanh nghiệp không ngần ngại sử dụng những thủ thuật bất chính gây thiệt hại cho đối thủ. Những quảng cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh vi phạm điểm a Khoản 5 Điều 45, Luật Cạnh tranh 2018: “Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác”.

Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh mà mới chỉ liệt kê những hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo và những hành vi đó bị coi là quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Do đó có những vi phạm phát sinh mà chưa được xếp vào nhóm này. Bên cạnh đó, các quy định chủ yếu mang tính chất quản lý, các chế tài xử lý vi phạm chưa thể hiện được tính răn đe và ngăn ngừa.

Quảng cáo vi phạm luật sở hữu trí tuệ. Trong lĩnh vực quảng cáo nói chung, rất nhiều những vi phạm tập trung vào sao chép các quảng cáo của nhau. Tình trạng lộn xộn trong quảng cáo diễn ra nhiều nhất đối với hoạt động quảng cáo ngoài trời. Trong những năm vừa qua, cùng với quá trình đô thị hóa, hoạt động quảng cáo ngoài trời dạng tồn tại nhiều sai phạm gây mất mỹ quan đô thị, thậm chí còn ảnh hưởng đến an toàn trật tự công cộng. Vấn đề đáng nói là một số doanh nghiệp mặc dù biết rõ là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nhưng vẫn cố tình đạo nhái. Vì lợi ích kinh tế nên nhiều doanh nghiệp chấp nhận nộp phạt vi phạm để quảng cáo vì lợi ích mang lại gấp nhiều lần số tiền chịu phạt. Việc này dẫn đến sự đe doạ đối với những doanh nghiệp nghiêm chỉnh chấp hành quy định pháp luật về lĩnh vực này.

Ngoài việc các doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận mà cố tình vi phạm quy định pháp luật về quảng cáo, một nguyên nhân khác dẫn đến những vi phạm về lĩnh vực này là do những quy định của pháp luật còn nhiều bất cập và mâu thuẫn, hoạt động quản lý còn yếu khiến cho doanh nghiệp quảng cáo nếu không phạm luật thì khó cạnh tranh với những đối thủ khác trên thị trường.

Do đó, cần sửa đổi các quy định pháp luật cho phù hợp, đề ra các giải pháp khắc phục các bất cập hiện tại cũng như xây dựng được nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động này trong tương lai để đàm bảo quyền cho các chủ thể tham gia quảng cáo căn hộ chung cư, đảm bảo được lợi ích của người tiêu dùng và thúc đẩy hoạt động kinh doanh căn hộ chung cư và thị trường bất động sản phát triển một cách lành mạnh.

 

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Trình bày những nội dung cơ bản trong hoạt động quản lí nhà nước về hoạt động xuất bản?

2. Phân tích một số nội dung cơ bản trong hoạt động quản lí nhà nước về hoạt động báo chí?

3. Phân tích một số nội dung cơ bản trong hoạt động quản lí nhà nước về hoạt động quảng cáo?

4. Vẽ sơ đồ cho thấy mối quan hệ giữa 3 loại hình: Xuất bản, quảng cáo và báo chí? Từ sơ đồ đó anh/chị hãy đánh giá đánh giá mối liên quan giữa các văn bản qui phạm pháp luật chính trong công tác quản lý nhà nước của 3 lĩnh vực này?



CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xuất bản đối với vấn nạn sao chép, in lậu, làm giả xuất bản phẩm?

2. Giải thích nhận định sau: “Tự do ngôn luận trên internet khiến báo chí trở nên “méo mó” ? Anh/chị sẽ làm gì để khắc phục hiện tượng này?

3. Kể tên những hình thức quảng cáo mà anh/chị biết, trong đó anh/chị thấy loại hình nào có sự biến tướng nhiều nhất và nêu nguy cơ mà nó gây ra cho xã hội?


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 3

[1]. Quốc hội, Luật Xuất bản 2012, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2012. [2]. Quốc hội, Luật Báo Chí 2016, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2016. [3]. Quốc hội, Luật Quảng Cáo 2012, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2012.

[4]. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 ban hành Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá và quảng cáo, 2021.

[5]. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều luật quảng cáo, 2013.

[6]. Bộ VHTTDL, Thông tư số 5699/2018/VBHN-BVHTTDL, ngày 18 tháng 12 năm 2018, ban hành Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của luật quảng cáo và nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều luật quảng cáo, 2018.

[7]. Bộ TTTT, “Thông tư số 01/2020/TT-BTTTT, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản và Nghị định 195/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xuất bản””, 2020.

[8]. Chính phủ nước CHXHCNVN, “Nghị định số 119/20220/NĐ-CP ngày 17/10/2020, Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản”, 2020.

[9]. T.M.Tuấn, “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí trong tình hình hiện nay”,2014.[Trực tuyến]. Địa chỉ: http://tapchiquocphongtoandan. [Truy cập ngày 20/12/2021].

 


 

Chương 4

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA, THIẾT CHẾ BẢO TÀNG, THƯ VIỆN


Di sản văn hóa và thiết chế thư viện, bảo tàng luôn gắn liền với nhau bởi vai trò của thư viện, bảo tàng trong đời sống xã hôi chính là bảo quản, lưu trữ và truyền tải giá trị văn hóa, trong đó có di sản văn hóa. Những thư viện, bảo tàng càng lưu trữ nhiều di sản văn hóa thì thư viện, bảo tàng đó càng có giá trị quan trọng.

4.1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA

4.1.1. Khái niệm và phân loại

Theo sự phân loại của tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá liên hợp quốc, di sản văn hóa gồm Di sản văn hóa vật thể (Tangible) như đình, chùa, miếu, đền, lăng tẩm, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và Di sản văn hóa phi vật thể (Intangible) bao gồm âm nhạc, múa, ngôn ngữ, huyền thoại, phong tục tập quán, y học cổ truyền, lễ hội.v.v.

Trong tuyên bố của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) về di sản văn hóa, được ký kết tại Thái Lan, cùng với việc nêu lên tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ phát huy giá trị di sản văn hóa của cộng đồng các quốc gia trong hiệp hội, ASEAN cũng đồng tình với cách hiểu bao gồm: các giá trị và các khái niệm văn hóa quan trọng; các kiến trúc và đồ chế tác; các địa điểm và nơi sinh sống của con người; những di sản văn hóa dân gian; những di sản được lưu giữ dưới dạng văn bản; các di sản văn hóa thông thường (văn hóa được tạo ra trong thời gian gần đây nhất và là kết quả của khoa học, công nghệ tiên tiến như điện ảnh, truyền hình, video).

Ở Việt Nam, trong văn kiện hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương (Khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng thống nhất quan điểm văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Như vậy, di sản văn hóa, với tư cách là kết quả của hoạt động văn hóa, đương nhiên là một chỉnh thể bao gồm cả di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.

Luật di sản văn hóa được Quốc Hội nước CHXHCNVN thông qua ngày 29/6/2001 và được sửa đổi bổ sung năm 2009, hợp nhất một số điều năm 2013 quy định:

Di sản văn hóa là sản phẩm văn hóa, tinh thần, vật chất của xã hội loài người và các di vật tiêu biểu, vật mẫu của giới tự nhiên có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

“Di sản văn hóa phi vật thể “ là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” [27, tr.2].

“Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [27, tr.2].

Tất cả những sản phẩm được coi là Di sản văn hóa theo quy định của Công ước đều được thực hiện dưới dạng vật chất có giá trị nhất định về lịch sử, nghệ thuật, khoa học. Tức là, những sản phẩm văn hóa tinh thần ở dạng chất liệu tư tưởng không được coi là văn hóa vật thể. Thường thì việc một sản phẩm văn hóa được thực hiện dưới dạng vật chất hay tinh thần quyết định việc nó được xếp vào nhóm văn hóa vật thể hay văn hóa phi vật thể. Tuy nhiên, việc phân loại này chỉ là tương đối và theo mục đích khác nhau mà người ta có thể phân loại chúng theo những tiêu chí khác nhau, thậm chí đôi khi chúng gắn bó mật thiết và có thể chuyển hóa cho nhau. Rõ ràng là một Di sản văn hóa vật thể luôn luôn thể hiện dưới dạng vật chất.

Di sản văn hóa vật thể xuất hiện từ rất lâu trong văn bản pháp luật.

Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa và di sản tự nhiên của thế giới đó được thông qua tại kỳ họp lần thứ 17 của UNESCO ngày 16/11/1972 tại Paris đó quy định tại điều 1:

“Di sản văn hóa là: Các di tích: các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa, các yếu tố hoặc kết cấu mang bản chất khảo cổ, các bia khắc, các hang động nguyên thủy và tổ hợp những yếu tố có giá trị nổi bật về lịch sử, khoa học và nghệ thuật; Nhóm công trình: Nhóm các công trình độc lập hoặc công trình liên kết với nhau mà do bản chất kiến trúc hay do tính thống nhất của chúng trong toàn bộ cảnh quan nên có giá trị quốc tế nổi bật xét từ góc độ nghệ thuật hoặc lịch sử; Danh thắng là các tác phẩm của con người hoặc các kết hợp của con người và thiên nhiên, những khu vực khảo cổ, có giá trị quốc tế nổi bật xét từ góc độ lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học và nhân chủng học”.

Như vậy, công trình xây dựng, địa điểm và các di vật cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình địa điểm đó phải có giá trị lịch sử, khoa học, văn hóa mới được coi là di tích lịch sử văn hóa. Có nghĩa chúng phải có vật chứng cho một sự kiện lớn hoặc gắn bó với cuộc sống, sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân kiệt xuất; hoặc chúng là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mỹ và hình thức thể hiện tiêu biểu cho một phong cách, một thời đại; hoặc chúng là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định.

Danh lam thắng cảnh cũng là di sản văn hóa vật thể và là một trong những yếu tố tạo thành môi trường như di tích lịch sử văn hóa. Theo quy định của Công ước năm 1972 về bảo vệ di sản văn hóa và di sản tự nhiên của thế giới Danh lam thắng cảnh được hiểu là “ Các công trình của con người hoặc những công trình của con người kết hợp với công trình tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có một giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học”.

Ở Việt Nam, tại Điều 4 khoản 4, chương 1, Luật di sản văn hóa 2009: “Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.”[28,tr.3].

* Một số khái niệm liên quan đến di sản văn hoá:

Các khái niệm liên quan đến di sản văn hoá được quy định tại Điều 4, Chương 1, những quy định chung của Luật Di sản văn hoá (từ khoản 5 đến khoản 11), cụ thể là:

Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.

Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.

Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiểm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.

Bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là sản phẩm được làm giống như bản gốc về hình dáng, kích thước, chất liệu, màu sắc, trang trí và những đặc điểm khác.

Sưu tập là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản văn hóa phi vật thể, được thu nhập, gìn giữ sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội.

Thăm dò, khai quật khảo cổ là hoạt động khoa học nhằm phát hiện, thu thập, nghiên cứu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và dịa điểm khảo cổ.

Bảo quản di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là hoạt động nhằm phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi những yếu tố nguồn gốc vố có của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Tu bổ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm tu sửa, gia cố, tái tạo di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.

Phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm phục dựng lại di tích - văn hóa, danh lam thắng cảnh đó bị hủy hoại trên cơ sở các cứ liệu khoa học về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đó.

4.1.2. Vai trò vủa di sản văn hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội

Di sản văn hóa quý báu do các thế hệ cha ông để lại trong việc quản lý và điều hành xã hội là tạo lập những phương các sắp xếp đặt, tổ chức xã hội ổn định dựa trên sức mạnh chung của cả cộng đồng để xây dựng tổ quốc Việt Nam.

Di sản văn hóa đó trở thành bộ phận cấu thành quan trong trong môi trường sống của con người và di tích lịch sử - văn hóa lại là phần biểu hiện vật chất mang các giá trị văn hóa tiêu biểu nhất trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Bởi vậy trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế xã hội Việt Nam nhà nước luôn xác định vị trí xứng đáng và ý nghĩa quan trọng của các di tích lịch sử văn hóa.

4.1.2.1. Di sản văn hoá là tài sản quốc gia, là nguồn lực phát triển

Trải qua hàng ngàn năm sáng tạo và tích luỹ, cha ông chúng ta đã để lại một di sản văn hoá khổng lồ thể hiện ở dưới dạng sản phẩm vật thể và phi vật thể. Như chương I đã phân tích các di sản văn hoá vật thể bao gồm các cổ vật, di vật, bảo vật các di tích lịch sử văn hoá, các danh lam thắng cảnh...Đây thực sự là một nguồn tài sản vật chất khổng lồ xét cả về mặt kinh tế và mặt tinh thần.

Về khía cạnh kinh tế các loại cổ vật, di vật và bảo vật quốc giá đều là những vật có giá trị kinh tế lớn. Với tư cách là một sản phẩm văn hoá, giá trị kinh tế của chúng không tính theo quy luật giá trị thông thường, là tính theo lượng lao động đầu tư vào

Hệ thống các di tích lịch sử văn hoá, các danh lam thắng cảnh cũng là một nguồn tài sản vô giá xét từ khía cạnh kinh tế. Đây chính là những điểm thu hút các du khách trong và ngoài nước tới tham quan. Hệ thống các di sản này đã tạo điều kiện để xây dựng và củng cố một nền công nghiệp không có ống khói mang lại những nguồn lợi đáng kể cho quốc gia. Du khách tới thăm các các di tích này không chỉ để ngắm nhìn các cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, họ còn tiêu dùng, thưởng thức các giá trị văn hoá tinh thần kết lắng trong mỗi di tích lịch sử văn hoá đó. Chẳng hạn, đến thăm địa đạo Củ Chi, một di tích lịch sử thời hiện đại du khách đều cảm thấy được chứng kiến một sức mạnh lớn lao, một sự bền bỉ, kiên cường hiếm thấy, một sức sáng tạo và thích nghi đặc biệt cuả một dân tộc trong một hoàn cảnh khó khăn như vậy mà vẫn có thể chiến thắng được kẻ thù. Hay khi tới thăm Vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên cuả thế giới, du khách không chỉ mê mải với những không gian thật thoáng đãng và kỳ diệu với những hòn đảo trùng điệp như ẩn chứa bao điều huyền bí và cứ mở ra, mở ra mỗi khi tàu, thuyền của họ đi sâu vào lòng vịnh, mà còn được đắm mình vào không gian của các truyền thuyết, các câu truyện cổ tích ghi lại dấu ấn chiến đấu, lao động và sáng tạo của con người nơi đây. Hệ thống các nhà bảo tàng cũng là những điểm đến yêu thích của phần đông khách du lịch. Bảo tàng chính là nơi lưu giữ và trưng bày những cổ vật, di vật quan trọng nhất trong di sản văn hoá vật thể của dân tộc. Bảo tàng thường đem lại cho du khách những hiểu biết một cách hệ thống, sâu sắc về tính cách, bản lĩnh và đặc trưng văn hoá của dân tộc thông qua cách tổ chức trưng bày những cổ vật, hiện vật, di vật một cách khoa học, hệ thống và ấn tượng. Nhiều khách du lịch đã để lại những dòng lưu bút thật cảm động và chân thành khi tới thăm Bảo tàng lịch sử, Bảo tàng Cách mạng. Bảo tàng Dân tộc học của Việt Nam. Vốn di sản văn hoá vật thể được lưu giữ, bảo tồn, trưng bày trong hệ thống các bảo tàng như có khả năng kể lại cho du khách những trang sử vàng, những phong tục, lối sống, những khả năng tư duy, sáng tạo, những kỹ năng thích nghi với môi trường... của dân tộc ta một cách thật sống động và ấn tượng.

4.1.2.2. Di sản văn hóa là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội

Chức năng kinh tế của di sản văn hoá thể hiện rõ nét khi coi chúng là tài sản quốc gia. Điều này trước đây chúng ta chưa thực sự quan tâm. Nhìn ra các nước, chẳng hạn trong chính sách văn hoá của Nhật Bản, các giá trị văn hóa truyền thống được quan niệm như là những tài sản văn hóa. Trong tương quan với khái niệm di sản văn hóa, tài sản văn hóa nhấn mạnh vào sự sở hữu tích cực của chủ thể, người quản lý tài sản văn hóa truyền thống chẳng những biết phát huy tác dụng giáo dục của tài sản ấy, mà còn phải biết làm cho nó có giá trị sử dụng - tức giá trị kinh tế trong xã hội đương đại. Vậy là ngay từ giữa thế kỷ XX, khi ban hành chính sách văn hóa, người Nhật đã ý thức được về nguồn lực phi vật thể

 

của những tài sản văn hóa truyền thống trong công cuộc khôi phục và phát triển đất nước của họ. Qua sự phân tích ở trên, ta thấy quan niệm di sản văn hóa như một nguồn lực phi vật thể trong phát triển kinh tế - xã hội cần được phát huy trên hai khía cạnh. Thứ nhất, phát huy chức năng tư tưởng của di sản văn hóa, nhằm bồi dưỡng con người về các mặt tri thức, tình cảm, ý chí, làm cho giá trị văn hóa tiềm nhập vào con người, khiến con người trở thành một nhân cách tích cực, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở đây, giá trị văn hóa biểu hiện như nguồn lực gián tiếp, tác động vào sự phát triển. Thứ hai, phân tích chức năng kinh tế của di sản văn hóa, biểu hiện như là một nguồn lực trực tiếp tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nếu chúng ta đặt toàn bộ di sản văn hóa vào quỹ đạo kinh doanh của ngành du lịch. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng phù hợp với quy luật phát triển và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân cả nước nên đã thu được những thành tựu to lớn trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đổi mới đã đưa Việt Nam vượt qua cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, đồng thời mở ra trang mới trong lịch sử phát triển đất nước. Một trong những nguyên nhân sâu xa của thành công kỳ diệu đó bắt nguồn từ văn hóa.

4.1.2.3. Di sản văn hóa trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa

Thuật ngữ bản sắc dân tộc được sử dụng rất thường xuyên trong các văn bản đời sống hiện đại. Bản sắc là một từ Hán Việt, trong đó bản là cốt lõi, căn cốt, cơ bản; sắc là sắc thái, là sự biểu hiện ra bên ngoài để có thể nhận biết được. Vì vậy, bản sắc là những biểu hiện, thể hiện cái cơ bản nhất, đặc trung nhất để nhận diện một sự vật và hiện tượng và để phân biệt sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác cùng loại hay khác loại . Bản sắc văn hoá dân tộc chính là những đặc trưng, những biểu hiện để ta nhận diện một nền văn hoá và qua đó nhận diện một dân tộc, phân biệt một dân tộc này với một dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là những yếu tố nổi trội, thể hiện những khuynh hướng, phẩm chất, bản lĩnh và thái độ ứng xử văn hóa của cá nhân, cộng đồng và quốc gia dân tộc.

Hệ thống di sản văn hoá đồ sộ mà ngày nay chúng ta được kế thừa đã minh chứng một cách hùng hồn những giá trị tinh thần cao quý, đẹp đẽ nhất, những cái tạo nên nền tảng giá trị tinh thần quan trọng nhất của bản sắc văn hoá dân tộc. Đó chính là: Lòng yêu đất nước nồng nàn, ý chí độc lập tự cường bất khuất, đạo lý uống nước nhớ nguồn sâu sắc, tinh thần tương thân, tương ái đoàn kết cộng đồng vững chắc và tấm lòng bao dung rộng mở. Đây chính là những nét tạo nên bản lĩnh, cốt cách của của dân tộc Việt Nam. Hệ thống di sản văn hoá không chỉ minh chứng, khẳng định bản lĩnh, cốt cách dân tộc mà còn cho ta thấy rõ những nếp sống, nếp sinh hoạt và suy nghĩ rất riêng của dân tộc ta thông qua hệ thống phong tục tập quán thật đa dạng và phong phú. Di sản văn hóa là một loại tài sản đặc biệt của quốc gia. Nó không chỉ có giá trị tinh thần lớn lao, mà còn là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Di sản văn hóa Việt Nam là kết tinh giá trị, tình cảm ngàn đời của các thế hệ cha anh. Trải qua biết bao biến cố của lịch sử, dù đã bị mất mát, huỷ hoại, nhưng ngày nay chúng ta vẫn còn giữ gìn được một kho tàng di sản văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng. Chính nhờ kho tàng di sản quý báu ấy mà chúng ta và các thế hệ mai sau có được nền tảng vững chắc về truyền thống lịch sử, bề dày văn hóa của mảnh đất Việt Nam hào hùng để vững bước tiến tới tương lai. Di sản văn hóa Việt Nam phản ánh tinh thần, truyền thống, tình cảm, trách nhiệm, tài năng và bản lĩnh ứng xử của con người Việt Nam trước mọi biến cố của thiên nhiên và lịch sử.

Đất nước ta đã trải qua những đêm dài nô thuộc, nhưng cha ông ta đã thể hiện bản lĩnh kiên cường đấu tranh, giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc. Văn hóa Việt Nam và di sản văn hóa Việt Nam chính là biểu hiện của bản lĩnh kiên cường, được tôi luyện qua trường kỳ lịch sử. Lịch sử dân tộc đã có nhiều ví dụ về bản lĩnh văn hóa Việt Nam, không chỉ thể hiện ở phương diện bảo vệ và phát huy những di sản văn hóa đặc sắc của ông cha, mà còn ở khả năng chọn lọc, tiếp thu những tinh hoa của thế giới nhằm phát huy thêm vốn văn hóa của người Việt Nam. Nếu chúng ta muốn thực sự hòa nhập vào xu thế toàn cầu hóa mà không bị hòa tan, thì nhất thiết phải phát huy truyền thống và sức mạnh nội lực của văn hóa Việt Nam, đồng thời phải biết tiếp thu có chọn lọc tri thức của nhân loại, kết hợp với sức mạnh của thời đại. Văn hóa Việt Nam sinh thành tại khu vực Đông Nam Á, có cơ tầng văn hóa gần gũi với phương Nam. Trong quá trình giao lưu và phát triển, văn hóa nước ta đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố thích hợp của các nền văn hóa lớn trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây tư sản, Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, dân tộc ta đã tích lũy được vốn di sản văn hóa phong phú, trưởng thành đến mức có thể dùng tiếng mẹ đẻ trên các giảng đường đại học mà không hề vướng mắc về thuật ngữ. Một di sản văn hóa đồ sộ phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc ta: đa dạng, phong phú và đầy bản lĩnh. Chính khả năng biết chọn lựa, thích nghi và nội địa hóa các giá trị văn hóa ngoại nhập cho thấy sức mạnh bền vững và trường tồn của bản sắc văn hóa Việt Nam, cho thấy sức mạnh của văn hóa gốc, văn hóa bản địa và khả năng thích ứng linh hoạt, khôn khéo, cởi mở, bao dung của dân tộc ta.

Trong giai đoạn hiện nay, với sự gia tăng không ngừng của các mối giao lưu quốc tế, đang đặt ra cho chúng ta vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc. Những khung cố kết dân tộc truyền thống như kinh tế, chính trị, thậm chí ngôn ngữ, đang bị phá vỡ và vượt qua. Thực tế đó đã đưa văn hóa trở thành nhân tố hàng đầu trong sự hiện diện dân tộc.

Từ ý nghĩa này, vai trò của di sản trong xu thế toàn cầu hóa sẽ được thể hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất, di sản văn hóa là hiện thân của bản sắc văn hóa, giữ gìn di sản văn hóa chính là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; Thứ hai, di sản văn hóa là biểu hiện của sự đa dạng và phong phú của văn hóa nhân loại, vì thế giữ gìn di sản văn hóa dân tộc là giữ gìn sự da dạng và phong phú của văn hóa nhân loại.

 

Có thể nói chưa bao giờ quy mô giao lưu lại mở rộng đến như vậy. Ta có thể giao lưu cùng một lúc với nhiều nền văn hóa có trình độ phát triển khác nhau trên thế giới. Trong đó, có cả những nền văn hóa còn rất xa lạ với chúng ta. Cũng chưa bao giờ phương thức giao lưu lại đa dạng, phong phú và thậm chí khó quan sát đến như vậy, chúng ta không chỉ giao lưu qua tiếp xúc trực tiếp, trao đổi các giá trị văn hóa trực tiếp, mà còn giao lưu qua con đường thương mại, qua sự phân công lao động toàn cầu và đặc biệt là qua các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, Internet. Cường độ tiếp xúc của ta với các nền văn hóa khác cũng gia tăng rất nhiều vì các thành tựu của khoa học công nghệ truyền thông. Hàng ngày, hàng giờ chúng ta tiếp xúc với những sản phẩm văn hóa của nhiều nền văn hóa, thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật của họ và chịu tác động khá mạnh mẽ của những biến đổi kinh tế toàn cầu. Ở khía cạnh thứ hai, nhân loại ngày càng coi trọng tính khác biệt, coi trọng bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, phản đối khuynh hướng đồng nhất, đồng hóa về văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế và quốc tế hóa về kinh tế, thì bản sắc văn hóa và sự đa dạng về văn hóa là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia. Nếu xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giao lưu, hội nhập với việc bảo vệ bản sắc dân tộc, sẽ mở đường cho văn hóa phát triển, đồng thời đảm bảo điều kiện cho sự phát triển bền vững. Chính vì vậy mà quốc gia nào cũng có các cơ chế, chính sách để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc mình. Các giá trị văn hóa không những chỉ có tác dụng hình thành nhân cách con người, mà còn là những tiêu chí điều chỉnh hành vi con người theo hướng chân, thiện, mỹ. Vì vậy, việc biết bảo vệ và phát huy di sản văn hóa và truyền thống văn hóa dân tộc là giải pháp khôn ngoan, duy nhất đúng trước thế kỷ XXI.

Tóm lại, di sản văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành hệ giá trị mới nhằm đảm bảo duy trì sự ổn định của xã hội hiện đại trong một thế cân bằng động. Tuyệt đại đa số những giá trị tốt đẹp mang tính bản sắc của dân tộc ta vẫn tiếp tục phát huy vai trò của mình trong thời đại mới. Nhưng cũng có nhiều giá trị đã lỗi thời cần mạnh dạn gạt bỏ để làm nhẹ hành trang vào tương lai. Và nhiều giá trị mới cần được sáng tạo ra và tiếp thu từ tinh hoa nhân loại để phù hợp với nhu cầu cấp thiết của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, nền tảng bền vững và trường tồn vẫn nằm trong khối di sản văn hóa của dân tộc ta.

4.1.3. Thực tiễn trong lĩnh vực quản lý di sản văn hóa

Đảng và Nhà nước xác định quản lý di sản văn hoá là một trong những nội dung trọng tâm trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để bảo đảm thực hiện được mục tiêu cũng như nhiệm vụ này, Nhà nước luôn chú trọng công tác QLNN đối với các DSVH. Hệ thống pháp luật, chính sách về DSVH từng bước được hoàn thiện. Nhà nước đã chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến để nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết cũng như ý thức pháp luật của xã hội về DSVH. Công tác thanh tra, kiểm tra đối với lĩnh vực này cũng đã phát hiện những hành vi vi phạm để từ đó có hướng xử lý. QLNN về DSVH đã góp phần tích cực vào quá trình bảo tồn cũng như phát triển DSVH, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật quy định trong lĩnh vực di sản văn hóa đang còn hiệu lực được thống kê, tập hợp, sắp xếp vào Luật di sản văn hóa” giúp các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân dễ dàng tìm kiếm, tra cứu cũng như bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.

Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa X thông qua năm 2001, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa của Việt Nam. Đến năm 2009, Luật được sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII, một số hạn chế, bất cập trong việc thực thi Luật Di sản văn hóa đã cơ bản được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo đảm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau 20 năm, Luật Di sản văn hóa được ban hành và 10 năm được sửa đổi, bổ sung, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân ở khắp mọi miền đất nước, nhờ đó, đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ thông qua bảng 4.1:

Bảng 4.1: Thống kê số lượng Di sản văn hoá ở Việt Nam tính đến năm 2021

[14, tr.33]


Tuy vậy, việc thực thi Luật Di sản văn hóa cũng đã bộc lộ những bất cập, cần sửa đổi cho phù hợp thực tiễn bởi hệ thống văn bản pháp luật về di sản văn hóa vẫn còn thiếu đồng bộ, một số nội dung vẫn bị chồng chéo bởi các luật khác, nhiều vấn đề phát sinh từ thực tiễn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển chưa được xử lý hài hòa. Việc bảo tồn chưa được ưu tiên và coi trọng, tại các khu di sản, việc phát triển du lịch một cách mạnh mẽ trong khi chưa có đủ cơ sở hạ tầng, chưa có những công cụ pháp lý hữu hiệu để điều chỉnh các hành vi liên quan đã làm cho di sản có nguy cơ bị ô nhiễm do quá tải, nhất là trong mùa lễ hội.

Với sự phát triển mạnh mẽ của các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội, đặc biệt là quá trình đô thị hóa đã làm cho sự xuất hiện của nhiều công trình “nhân tạo”. Quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng… được hình thành để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội đã tạo ra áp lực lớn cho sự phát triển các DSVH. Bên cạnh đó, công tác bảo tồn di sản còn gặp khá nhiều khó khăn, phải thường xuyên đối mặt với sự xuống cấp của di tích. Áp lực về phát triển kinh tế – xã hội cũng tác động trực tiếp đến công tác bảo tồn di tích. Du lịch phát triển mạnh đem lại nguồn thu đáng kể cho nguồn ngân sách địa phương, đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, lượng khách đến tham quan nhiều và tập trung đông cộng với sự thiếu ý thức của người dân đối với bảo tồn, gìn giữ di sản dẫn đến tình trạng cơ sở hạ tầng quá tải.

Hiện nay công tác bảo tồn và phát triển DSVH mặc dù được quan tâm, nhưng cách thức tiến hành chưa khoa học và hiệu quả. Công tác trùng tu và bảo vệ các DSVH bị hạn chế bởi kinh phí cũng như vướng các thủ tục hành chính. Điều này dẫn đến sự xuống cấp của các DSVH. Công tác bảo tồn và phát huy các DSVH còn chưa tương xứng với giá trị, tầm vóc của di sản. Việc quản lý, bảo vệ di tích, bảo quản cổ vật, di vật, hiện vật tại một số địa phương còn chưa hiệu quả.

 

Một số di tích hạn chế về diện tích, nằm xen kẽ trong các địa bàn dân cư nên việc tổ chức các hoạt động văn hóa tại di tích gặp khó khăn.

Ngoài ra, còn chưa xây dựng được lực lượng nghệ nhân là những người tham gia giữ gìn, bảo tồn, phục dựng lễ hội tại cơ sở; đội ngũ cán bộ văn hóa từ cấp xã đến cấp huyện còn hạn chế nhất định về năng lực hướng dẫn, tổ chức, phục dựng lễ hội và các hoạt động văn hóa dân gian nói riêng, việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH nói chung,…

Trên thực tế nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực DSVH còn mỏng, năng lực quản lý và chuyên môn còn nhiều hạn chế; nhiệm vụ kiểm kê di tích, quy hoạch khảo cổ, tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích ở nhiều địa phương còn thiếu đồng bộ và chưa được quản lý chặt chẽ, dẫn tới nhiều sai phạm vẫn còn tiếp diễn; phần lớn các bảo tàng chậm đổi mới cả về nội dung trưng bày, hình thức hoạt động nên thiếu tính hấp dẫn và chưa gắn kết được với hoạt động du lịch; nhiều địa phương chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu cấp thiết của việc kiểm kê, lập hồ sơ khoa học DSVH phi vật thể trên địa bàn.

Công tác thanh tra, kiểm tra ở một số lĩnh vực của DSVH chưa thật sự đạt hiệu quả là do lực lượng thanh tra, hậu kiểm còn mỏng, chế tài xử lý vi phạm còn thiếu hoặc chưa đủ sức răn đe. Công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc triển khai thực hiện các nội dung nhiệm vụ theo các quy hoạch, chiến lược, đề án đã được phê duyệt trong lĩnh vực DSVH chưa thật tốt. Công tác thanh tra, kiểm tra mặc dù đã được thực hiện, nhưng nhìn chung còn chưa tiến hành đồng bộ. Việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các sai phạm trong lĩnh vực này chủ yếu đến từ phản ánh, kiến nghị của báo chí và người dân. Tính chủ động của các cơ quan quản lý văn hóa là chưa cao. Điều này dẫn đến tình trạng sai phạm, xâm phạm đến các di tích văn hóa vẫn còn diễn ra không đáp ứng được mục tiêu phát triển bền vững.

4.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TÀNG

4.2.1. Khái niệm và phân loại

Trước đây, trong Quy chế tổ chức và hoạt động của bảo tàng do Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành tại quyết định số 132/1998/QĐ-BVHTT ngày 06 tháng 02 năm 1998, bảo tàng được định nghĩa là: “Bảo tàng là một thiết chế văn hóa, có chức năng nghiên cứu và giáo dục khoa học thông qua hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền phát huy tác dụng các di sản lịch sử - văn hóa và thiên nhiên phù hợp với loại hình, tính chất và nội dung của bảo tàng”.

Định nghĩa về bảo tàng trong luật di sản văn hóa, năm 2009: “Bảo tàng là thiết chế văn hoá có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn

 

hoá, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người, nhằm phục vụ nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công chúng”[28, tr.5].

Dù có những định nghĩa khác nhau, các định nghĩa trên vẫn thống nhất bảo tàng có hai chức năng cơ bản: nghiên cứu khoa học và giáo dục phổ biến khoa học. Muốn thực hiện chức năng này mỗi bảo tàng đều thực hiện các nhiệm vụ cụ thể đó là hoạt động nghiên cứu khoa học; sưu tầm hiện vật; kiểm kê và xác định nội dung khoa học cho các hiện vật; bảo quản và tổ chức kho cho các hiện vật; trưng bày các hiện vật bảo tàng; tuyên truyền và giáo dục phổ biến kiến thức khoa học.

* Phân loại bảo tàng

Bảo tàng Việt Nam bao gồm:

(1). Bảo tàng quốc gia là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu trong phạm vi cả nước;

(2). Bảo tàng chuyên ngành là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu về một chuyên ngành;

(3). Bảo tàng cấp tỉnh là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu ở địa phương;

(4). Bảo tàng tư nhân là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về một hoặc nhiều chủ đề.


Bảng 4.2: Phân loại số lượng bảo tàng ở Việt Nam [14, 34]



TT Phân loại bảo tàng Số lượng

1 Bảo tàng Quốc gia 5 04

2 Bảo tàng chuyên ngành 43

3 Bảo tàng cấp Tỉnh 81

4 Bảo tàng ngoài công lập 56

Tổng số 184

Theo thống kê đến năm 2021, cả nước có 184 bảo tàng (128 bảo tàng công lập và 56 bảo tàng ngoài công lập), lưu giữ và trưng bày gần 4 triệu tài liệu hiện vật; 239 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia.

Đến nay, đã có 90/128 bảo tàng công lập được xếp hạng (14 bảo tàng hạng I; 61 bảo tàng hạng II; 19 bảo tàng hạng III). Hệ thống bảo tàng đã xác lập được vị thế của mình trong hệ thống thiết chế văn hóa, góp phần thực hiện nhiệm vụ




5 Thuộc Quản lý của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

 

chính trị mà Đảng, Nhà nước giao cho trong công tác giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức tôn vinh bản sắc dân tộc, phổ biến kiến thức khoa học, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, trở thành những điểm đến hấp dẫn trực tiếp góp phần phát triển du lịch, Bảo tàng Quảng Ninh là một thiết chế Văn hoá thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan.

4.2.2. Quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng

Quản lý nhà nước đối với bảo tàng hay gọi tắt là quản lý bảo tàng là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển và tiến bộ của bảo tàng. Nếu không có cơ chế quản lý thích hợp, các bảo tàng không thể có được sự chăm sóc và xử lý các bộ sưu tập hiện vật, bảo tàng cũng không thể duy trì và khuyến khích được một phần trưng bày và chương trình giáo dục có hiệu quả. Không có sự quản lý thích hợp, bảo tàng có thể dễ dàng đánh mất mối quan tâm và niềm tin của công chúng và có thể ngây nguy hại đến sự tồn tại của một bảo tàng.

Quản lý nhà nước về bảo tàng được hiểu là hoạt động của các cơ quan nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và thi hành pháp luật đối với hoạt động của bảo tàng.

* Chủ thể quản lý nhà nước đối với bảo tàng

- Cấp Trung ương : Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Cấp địa phương : Ủy ban nhân dân, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh

* Nội dung quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng

Một là quy hoạch hệ thống bảo tàng : Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020, trong đó quy hoạch đối với các bảo tàng tỉnh, thành phố. Nhằm kiện toàn và phát triển hệ thống bảo tàng, phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa học, học tập, giảng dạy, phổ biến tri thức về lịch sử, văn hóa, khoa học và hưởng thụ văn hóa của công chúng, góp phần phát triển kinh tế

- xã hội.

Ngày 26/8/2016, Thứ trưởng Bộ VHTT&DL đã ký văn bản số 3376/BVHTTDL-DSVH gửi các bộ, ngành, tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020.

Hai là xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế đối với hệ thống bảo tàng. Thông tư số 18/2010/TT-BVHTTDL ngày 31 tháng 12 năm 2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đây được xem là văn bản hoàn chỉnh nhất về công tác tổ chức và quy định rõ về chức năng hoạt động của bảo tàng.

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg, ngày 23/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020”. Với mục tiêu kiện toàn và phát triển hệ thống bảo tàng, phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa học, học tập, giảng dạy, phổ biến tri thức về lịch sử, văn hóa, khoa học và hưởng thụ văn hóa của công chúng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Công tác chỉ đạo cũng như quản lý của các sở, ban ngành các đơn vị trực thuộc đã có những bước đổi mới quan trọng. Đã nghiêm túc tổ chức thực hiện đúng và đầy đủ theo các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, tuân thủ chặt chẽ và bám sát sự chỉ đạo của các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc đẩy mạnh công tác quản lý nguồn nhân lực, thực hiện chế độ báo cáo và công bố công khai theo các nội dung: điều kiện đảm bảo chất lượng.

Ba là xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách đối với hệ thống bảo tàng

Chính sách phát triển hệ thống bảo tàng là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy người lao động làm việc, gắn bó lâu dài và cũng thắt chặt quyền lợi và nghĩa vụ lao động với tổ chức. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách phát triển hệ thống bảo tàng được thể hiện thông qua hệ thống chính sách như:

Chính sách phát huy giá trị của hệ thống bảo tàng gắn với phát triển du lịch: Từ bao đời nay, bảo tàng luôn được coi là một thiết chế văn hóa đặc thù trong hệ thống văn hóa xã hội, đồng thời là nền tảng và động lực phát triển của xã hội, góp phần vào việc giải quyết những thách thức trong xã hội hiện đại. Bên cạnh đó, bảo tàng còn góp phần quan trọng cho nhận thức của xã hội đối với những vấn đề thuộc về lịch sử, truyền thống và văn hóa của mỗi quốc gia. Đồng thời bảo tàng có một vai trò quan trọng trong việc truyền tải lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của đất nước đến đông đảo khách tham quan, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Vì vậy việc xây dựng chiến lược gắn kết với hoạt động du lịch là hết sức cần thiết. Bảo tàng cần tìm hiểu nhu cầu của ngành du lịch để đưa ra những sản phẩm du lịch đáp ứng yêu cầu. Bảo tàng và du lịch phải là hai thiết chế bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cả hai ngành đều cùng phát triển và hướng tới một môi trường lớn: trường quốc tế.

Chính sách bảo tồn giá trị hệ thống bảo tàng: Trong mỗi bảo tàng, công tác sưu tầm là một trong những hoạt động khoa học giữ vai trò quan trọng. Gắn với thực tế hình thành và phát triển của bảo tàng, công tác sưu tầm được tiến hành

 

sớm ngay từ những ngày đầu thành lập, bắt đầu từ việc sắp xếp, chọn lựa, thống kê để bảo quản lâu dài những tài liệu hiện vật.

Chính sách xã hội hóa: Những năm qua, ngành văn hóa phối hợp các địa phương đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa theo phương thức xã hội hóa. Nhiều hoạt động được triển khai, huy động nguồn lực và sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân, thể hiện rõ nhất ở việc tu bổ di tích, khôi phục các hoạt động văn hóa, lễ hội. Thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa còn dẫn đến sự ra đời của hàng loạt bảo tàng ngoài công lập cùng các câu lạc bộ, hội sưu tầm cổ vật, góp phần hạn chế tình trạng thất thoát cổ vật, tạo cơ hội để công chúng được tiếp cận các di sản văn hóa của đất nước.

Chính sách đối với nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực cho các bảo tàng trên cơ sở chú trọng đào tạo lý thuyết gắn với thực hành, thường xuyên cập nhật các tri thức, kinh nghiệm từ các bảo tàng tiên tiến của quốc tế. Tăng cường các hoạt động hợp tác, mở rộng giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau; phối hợp hoạt động theo các mô hình đơn vị kết nghĩa, hợp tác và chuyển giao công nghệ, nhằm chia sẻ thông tin, nhất là trong việc ứng dụng các công nghệ tiến tiến trong một số lĩnh vực như: Đổi mới thiết kế, chất liệu hệ thống trưng bày; ứng dụng công nghệ mới trong bảo quản hiện vật; trao đổi hiện vật; phối hợp tổ chức các triển lãm chuyên đề. Có chiến lược cho việc tuyển chọn, thu hút nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ lành nghề, chuyên nghiệp làm việc tại bảo tàng. Thực hiện chính sách trải thảm đỏ để ưu tiên tuyển chọn những người giỏi ngoại ngữ, những sinh viên kết quả học tập xuất sắc trong các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài, thực hiện tốt việc trẻ hóa đội ngũ cán bộ.

Bốn là xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý hệ thống bảo tàng

Một tổ chức muốn tồn tại và phát triển thì mỗi con người không thể hành động riêng lẻ mà cần phối hợp những nỗ lực cá nhân để hướng tới những mục tiêu chung. Quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cũng như đảm bảo cuộc sống an toàn cho xã hội ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn với tính phức tạp ngày càng cao đòi hỏi phải có sự phân công hợp tác của những con người trong tổ chức. Trong quản lý hệ thống bảo tàng cũng vậy, mỗi bảo tàng đều thực hiện những mục tiêu nhất định, mà để thực hiện được các mục tiêu đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn cao và đội ngũ quản lý có trình độ. Đó chính là lực lượng lao động quản lý trong hệ thống bảo tàng và hình thành lên bộ máy quản lý.

Để đảm bảo sự thống nhất trong điều hành hệ thống bảo tàng thì mỗi bảo tàng ít nhất phải có một thủ trưởng trực tiếp chỉ đạo lực lượng quản lý để thực

 

hiện các nhiệm vụ: Bố trí, sắp xếp nhân viên cho phù hợp với từng nhiệm vụ cụ thể nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong tổ chức, nhằm khai thác khả năng chuyên môn sáng tạo của mỗi thành viên trong việc thực hiện các mục tiêu để thực hiện các mục tiêu đề ra.

Như vậy, trong mỗi bảo tàng nếu không có cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thì không có một lực lượng nào có thể tiến hành nhiệm vụ quản lý và không có quá trình sản xuất nào được thực hiện nếu không có cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. Từ những lập luận trên, có thể khẳng định vai trò quan trọng của cơ cấu tổ chức bộ máy, nó quyết định toàn bộ quá trình hoạt động của tổ chức. Cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của tổ chức sẽ giúp cho việc thực hiện các nhiệm vụ một cách nhanh chóng và đạt hiệu quả cao. Ngược lại nếu một tổ chức không phù hợp với đều kiện mới, nhiều bộ máy chồng chéo nhau sẽ dẫn đến sự trì trệ, mâu thuẫn và kém hiệu quả.

Năm là xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn đối với hệ thống bảo tàng

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ, coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, là khâu then chốt trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người, rất cần chú trọng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý xuất phát từ tình hình thực tiễn, thông qua thực tiễn để đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng tình hình, nhiệm vụ mới của đất nước; gắn xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý với xây dựng tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động văn hóa.

Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý về hệ thống bảo tàng về số lượng cũng như chất lượng hiện là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Thực hiện quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý có trình độ chuyên môn theo kịp và thích ứng với sự phát triển của đất nước. Chăm lo xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và khả năng tham mưu, giúp việc, quản lý tốt các hoạt động bảo tàng trên phạm vi cả nước.

Như vậy, trong quản lý nhà nước, vấn đề con người trong bộ máy quản lý đã được quan tâm ngày một đầy đủ hơn. Đây chính là một phương diện quan trọng trong văn hóa quản lý nhà nước. Các thành tựu của khoa học công nghệ đã được sử dụng ngày càng nhiều, tạo cho hiệu lực và hiệu quả quản lý văn hóa ngày càng gia tăng. Việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, tin học hóa, xây dựng chính phủ điện tử đang trở thành trung tâm chú ý của cải cách hành

 

chính nhằm tiết kiệm nhân lực, tài lực và nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về văn hóa.

Sáu là hỗ trợ các hoạt động quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng

Để hoạt động về văn hóa nói chung và hệ thống bảo tàng nói riêng được phát triển bình thường và hài hòa với tiến trình phát triển kinh tế, thực hiện các mục tiêu hệ thống bảo tàng đòi hỏi phải tăng mức đầu tư và hỗ trợ nguồn lực cho các hoạt động của hệ thống bảo tàng.

Hỗ trợ nguồn lực để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng vừa là chức năng vừa là nhiệm vụ của nhà nước như: Duy trì tổ chức bộ máy và đảm bảo cho các hoạt động thường xuyên của hệ thống bảo tàng như: mua sắm trang thiết bị làm việc, trả lương, chi hành chính khác. Thực hiện các chương trình, đề án hay dự án thuộc chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng. Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống bảo tàng hoạt động tham gia các nghiên cứu và khảo sát hoạt động bảo tàng ở nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tàng trong nước.

Bảy là thanh tra, kiểm tra và đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo

tàng

Những hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát đã đem lại những hiệu

quả thiết thực và tạo nên môi trường lành mạnh trong hoạt động quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng. Đối với hệ thống bảo tàng, thanh tra, kiểm tra và đánh giá là một công tác rất quan trọng trong quá trình tổ chức và quản lý bảo tàng, mục đích của thanh tra, kiểm tra và đánh giá là nhằm điều chỉnh những nhận thức cũng như những hành vi sai trái trong quá trình tổ chức hoạt động của hệ thống bảo tàng.

Mặt khác, hệ thống bảo tàng cần chủ động xây dựng mối quan hệ gắn bó với các trường học, các đoàn trực thuộc, các công ty du lịch lữ hành trong và ngoài nước, để đưa khách tham quan bảo tàng tới bảo tàng nghiên cứu, học tập thưởng thức và tăng cường giao lưu hợp tác giữa các bảo tàng để trao đổi kinh nghiệm hoạt động chuyên môn, trao đổi hiện vật, phối hợp tổ chức trưng bày triển lãm, hội thảo chuyên đề, xuất bản ấn phẩm để có thể từng bước hòa nhập với hệ thống bảo tàng Trung ương và các bảo tàng địa phương.

4.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯ VIỆN

4.3.1. Khái niệm và phân loại

Theo UNESCO, 1982: “Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn phẩm định kì hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ họa, nghe - nhìn, nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài liệu đó nhằm mục đích thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí”.

Do đó, các thư viện hiện đại ngày càng trở thành nơi để truy cập thông tin vô hạn chế bằng nhiều định dạng và từ nhiều nguồn gốc. Gần đây hơn, các thư viện không còn chỉ là kiến trúc, họ cũng hỗ trợ tìm kiếm và phân tích rất nhiều kiến thức, dùng đủ loại thứ công cụ điện tử.

Đối với Việt Nam, thư viện được định nghĩa như sau: “Thư viện là thiết chế văn hoá, thông tin, giáo dục, khoa học thực hiện xây dựng, xử lý, lưu giữ, bảo quản, cung cấp tài nguyên thông tin phục vụ nhu cầu của người sử dụng” [30]. Định nghĩa này khẳng định rõ những chức năng và công dụng xã hội của thư viện.

Thư viện là một kho sưu tập các nguồn thông tin, được chọn lựa bởi các chuyên gia và có thể được tiếp cận để tham khảo hay mượn, thường là trong một môi trường yên tĩnh phù hợp cho học tập. Kho tàng của một thư viên có thể chứa đến hàng triệu đầu mục, bao gồm nhiều định dạng như sách, ấn phẩm định kỳ, báo, thư bản, phim, bản đồ, bản in, văn kiện, CD, cassette, băng video, DVD, đĩa Blu-ray, sách điện tử, sách nói, cơ sở dữ liệu, video game và các thể loại khác.

Phân loại thư viện như sau : Thư viện Quốc gia Việt Nam; Thư viện công cộng; Thư viện chuyên ngành; Thư viện lực lượng vũ trang nhân dân; Thư viện cơ sở giáo dục đại học (thư viện đại học); Thư viện cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, dạy nghề (các cơ sở giáo dục khác); Thư viện cộng đồng và thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng; Thư viện của tổ chức cá nhân nước ngoài có phục vụ người Việt Nam

Bên cạnh đó, Thư viện được tổ chức theo hai mô hình sau đây: Thứ nhất là thư viện công lập do Nhà nước đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động và đại diện chủ sở hữu được tổ chức theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc phù hợp với mô hình của cơ quan, tổ chức chủ quản; Thứ hai là thư viện ngoài công lập do tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài, cộng đồng dân cư đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động và được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp ngoài công lập hoặc mô hình khác [30].

4.3.2. Vai trò của thư viện trong xã hội

Thứ nhất, thư viện là kho tàng tri thức và các giá trị văn hóa của nhân loại.

Vốn tài liệu của thư viện có giá trị văn hóa to lớn. Thư viện lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa của loài người, là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa, là tài sản quý giá của một quốc gia, nhờ thư viện, tri thức được truyền bá từ

 

đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Góp phần làm tăng giá trị văn hóa và tạo nên niềm tự hào cho dân tộc.

Thứ hai, thư viện là trung tâm truyền bá sách báo rộng rãi trong quần chúng nhân dân.

Với chức năng văn hóa-giáo dục, thông tin và giải trí, cùng với các trường học thư viện đã góp phần to lớp vào việc mở mang giao tiếp xã hội, nâng cao trình độ dân trí, nâng cao đời sống tinh thần con người.

Thứ ba, thư viện giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có tri thức cho đất nước.

Ở các nước trên thế giới, thư viện được coi là bộ nhớ về lịch sử văn hóa lưu giữ tri thức cho các thế hệ mai sau. Thư viện được coi là cơ sở vật chất cho việc giáo dục con người phát triển toàn diện, tự giáo dục đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn. Là cơ sở cho việc học tập không ngừng tạo nên một “xã hội học tập”

Thứ tư, thư viện góp phần đắc lực phát triển sản xuất, phát triển các ngành kinh tế quốc dân, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Để xã hội phát triển phải đưa tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và nâng cao trình độ văn hóa khoa học – kỹ thuật cho đông đảo nhân dân; hoạt động tích cực của các thư viện trong việc tuyên truyền các thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến ở trong nước và nước ngoài, phổ biến kiến thức khoa học thường thức… có tác dụng tích cực trong việc phát triển sản xuất và cải tiến các quá trình sản xuất trong thực tiễn.

Thứ năm, thư viện là trung tâm thông tin, tạo điều kiện cho người sử dụng tiếp cận nhanh chóng tới tri thức và thông tin ở tất cả các dạng thức. Internet và các phương tiện truyền thông mới hiện đại như truyền hình ảnh (videotex), thư điện tử (email), hội nghị, hội thảo từ xa, truyền hình cáp (cabtelevision), truyền hình phân giải, truyền hình vệ tinh đã tác động mạnh mẽ đến công tác thư viện không chỉ là nơi lưu giữ và tổ chức, sử dụng tài liệu mà thật sự trở thành trung tâm thông tin mới đúng nghĩa của nó, cung cấp tri thức và các loại thông tin.

4.3.3. Nội dung quản lý nhà nước về thư viện

4.3.3.1. Khái niệm quản lý nhà nước về thư viện

Hoạt động thư viện là một bộ phận cấu thành của xã hội nên được đặt dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước; chủ động dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của các loại hình thư viện trong mối liên kết chặt chẽ, thúc đẩy nhau cùng phát triển nhanh chóng và hướng mọi hoạt động thư viện vào phục vụ những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước.

 Quản lý nhà nước về thư viện là sự tác động có chủ đích, có định hướng của Đảng và nhà nước đối với toàn bộ hoạt động liên quan đến công tác thư viện bằng quyền lực của nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính trên tất cả các mặt hoạt động của công tác thư viện, nhằm đảm bảo sự tăng cường các chức năng tư tưởng, thông tin khoa học, văn hóa, giáo dục và công tác thư viện, đảm bảo sự tăng cường liên tục các mục tiêu của nhà nước và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tài liệu trong xã hội.

4.3.3.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về thư viện

Một là, nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động thư viện. Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường, sự phát triển kinh tế - xã hội có tính phức tạp, năng động, hoạt động thư viện đòi hỏi phải có một chủ thể có tiềm lực về mọi mặt để đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy không ai khác chính là nhà nước – vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức hoạt động du lịch. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, nhà nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng các công cụ này để tổ chức và quản lý hoạt động thư viện.

Hai là, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thư viện là cơ sở, là những công cụ để nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động thư viện. Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động quan hệ kinh tế nói chung, hoạt động thư viện nói riêng diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động. Mặc dù, thực tiễn hoạt động thư viện diễn ra phức tạp thì sự quản lý của nhà nước cũng phải đảm bảo cho hoạt động thư viện có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có tính định hướng rõ rệt. Do đó, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật mang tính chuẩn mực và dùng các công cụ này và sử dụng chúng như một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như các hoạt động thư viện.

Ba là, quản lý nhà nước đối với hoạt động thư viện đòi hỏi phải có một bộ máy nhà nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp. Quản lý nhà nước đối với hoạt động thư viện phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động thư viện phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy và đội ngũ quản lý nhà nước không thể khác hơn là phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ trung ương đến địa phương.

 

4.4. Thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước đối với thư viện:

Ở nước ta, Nhà nước luôn thể hiện vai trò trong việc quản lý thư viện. Quản lý nhà nước về thư viện cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước – là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động thư viện do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội.

Thư viện là một thiết chế quan trọng của ngành văn hóa thông tin, nhằm phục vụ nhu cầu tinh thần của người dân. Chúng ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền, trong đó mọi quan hệ về quyền và nghĩa vụ của công dân được bảo đảm và điều tiết bằng pháp luật, với tư cách là một bộ phận cấu thành trong lực lượng sản xuất, tổ chức và hoạt động của các thư viện tất yếu chịu sự chỉ đạo của hệ thống pháp chế ấy. Vì thế, biểu hiện tập trung ở sự thể chế hóa những chủ trương, chính sách lớn bằng pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp thư viện, trên cơ sở hệ thống luật và các văn bản dưới luật là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Hiện nay, ở cấp Trung ương nước ta có bộ máy đầu mối, chuyên trách về thực hiện công tác quản lý nhà nước về thư viện là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (thông qua Vụ thư viện làm việc trực tiếp). Ngày 31 tháng 3 năm 2008 BVHTT&DL ra Quyết định số 26/2008/QĐBVHTTDL quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Thư viện. Quyết định này đã xác định rõ vị trí, trách nhiệm quản lý nhà nước của Vụ Thư viện trực tiếp đối với hệ thống thư viện Việt Nam.

Căn cứ theo Luật Thư viện, nội dung quản lý nhà nước về thư viện bao gồm:

Thứ nhất, ban hành văn bản quản lý nhà nước về thư viện Văn bản quản lý là phương tiện để xác định và vận dụng các chuẩn mực pháp lý vào quá trình quản lý nhà nước.

Để thể chế hoá những quy định của pháp luật về công tác văn hoá nói chung và ngành thư viện nói riêng, các cơ quan trong hệ thống hành pháp và quản lý hành chính các bộ đã ban hành các văn bản dưới luật thuộc phạm trù pháp quy về công tác thư viện làm cho nghị quyết của Đảng và những điều quy định của hiến pháp có tính khả thi và thâm nhập vào đời sống xã hội.

Khi ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của thư viện, một điều hết sức quan trọng là chỉ đạo, thực hiện các văn bản pháp luật đó, để thực sự có hiệu quả và sớm đi vào cuộc sống, làm đòn bẩy cho hoạt động

 

thư viện phát triển. Pháp luật thư viện ở nước ta là phương tiện thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực thư viện, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật thư viện quy định các điều kiện vật chất, tinh thần, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước trong việc hướng dẫn, giúp đỡ, tổ chức cho nhân dân thực hiện quyền, nghĩa vụ, bổn phận của công dân trong hoạt động thư viện. Pháp luật còn quy định những biện pháp nhằm ngăn chặn, trừng trị những hành vi xâm phạm đến quyền của công dân được sử dụng thư viện, vốn tài liệu, các dịch vụ của thư viện. Để tăng cường sự quản lý nhà nước, đảm bảo cho sự nghiệp thư viện Việt Nam phát triển theo đúng định hướng của Đảng, phù hợp với xu thế chung của thế giới, đặc biệt để các thư viện đáp ứng tốt nhất các yêu cầu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước, nhà nước ta đã ban hành Luật Thư viện. Đến thời điểm hiện tại, Luật Thư viện là văn bản pháp lý cao nhất đối với hoạt động thư viện và mang ý nghĩa to lớn đối với ngành thư viện Việt Nam.

Luật Thư viện, 2019 đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng, giúp các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp, các ngành ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn và cụ thể hóa những nội dung quy định trong Luật Thư viện, từ đó thúc đẩy sự phát triển của thư viện Việt Nam và tạo niềm tin, động lực cho những người làm công tác thư viện. Đồng thời Luật Thư viện đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trung ương và địa phương có liên quan đầu tư, tạo điều kiện hơn nữa cho sự nghiệp thư viện. Luật thư viện ban hành nhằm xác lập những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam; xác định quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động thư viện, nhiệm vụ và quyền hạn của thư viện, của người làm công tác thư viện; trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực thư viện, đảm bảo cho sự phát triển thư viện Việt Nam phát triển đáp ứng giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Có thể nói việc Luật Thư viện được ban hành là một sự kiện quan trọng đối với những người làm công tác thư viện Việt Nam vì lần đầu tiên, họ có một văn bản pháp lý chính thức cho hoạt động.

Ngoài ra còn một số văn bản quy phạm pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về thư viện như:

- Nghị định số 93/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thư viện;

- Thông tư số 01/2020/TT-BVHTT&DL ngày 22 tháng 5 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định các mẫu văn bản thông báo thành lập, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, chấm dứt hoạt động thư viện;

 

- Thông tư số 02/2020/TT-BVHTT&DL ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về bảo quản, thanh lọc tài nguyên thông tin và tài nguyên thông tin hạn chế sử dụng trong thư viện;

- Thông tư số 05/2020/TT-BVHTT&DL ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về đánh giá hoạt động thư viện; Các văn bản có liên quan khác.

Thứ hai, tổ chức thực hiện văn bản quản lý nhà nước về thư viện

Xây dựng, chỉ đạo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các loại hình thư viện là vấn đề cơ bản trong công tác quản lý nhà nước của ngành thư viện. Trong vai trò quản lý vĩ mô phát triển sự nghiệp thư viện, cần phân định những phương hướng ưu tiên của quốc gia trong từng thời kỳ xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển sự nghiệp thư viện, xem đó là căn cứ và nội dung hợp thành, gắn bó hữu cơ trong kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Kế hoạch phát triển sự nghiệp thư viện phải dựa vào Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong thời kỳ cụ thể, phải xây dựng kế hoạch chiến lược cho giai đoạn dài và kế hoạch ngắn hạn. Kế hoạch, quy hoạch phát triển sự nghiệp thư viện phải được thấm nhuần, xuyên suốt trong từng bộ phận hợp thành của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các kế hoạch và định hướng lớn này được cụ thể hoá trong chương trình, mục tiêu văn hoá trọng điểm.

Đào tạo, bồi duỡng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác thư viện cũng là một trong những biểu hiện nhà nước lãnh đạo sự nghiệp thư viện ở nước ta. Mọi hoạt động thông tin thư viện đều gắn liền với người cán bộ thư viện. N.C. Crupxcaia đã từng chỉ rõ: “Cán bộ Thư viện chính là linh hồn của công tác Thư viện”. Do đó, đánh giá chất lượng của hoạt động thông tin Thư viện thực chất là đánh giá trình độ tay nghề, khả năng thích ứng của người cán bộ thông tin thư viện trong việc phát huy hiệu quả sử dụng thư viện trong xã hội. Do đó, trong nội dung quản lý nhà nước, ngành thư viện phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ cho những người làm công tác thư viện nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác Thông tin - Thư viện hiện nay.

Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ trong lĩnh vực thư viện là một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về thư viện. Phải xác định những phương hướng, đề tài chủ yếu của công tác nghiên cứu khoa học thông tin - thư viện về xây dựng sự nghiệp thư viện trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay.

 

Đảm bảo phát triển số lượng thư viện phù hợp tình hình kinh tế xã hội đất nước, phân bố hợp lý, cân đối trên các vùng lãnh thổ và để quản lý tốt nội dung hoạt động của các loại hình thư viện ngày càng đa dạng, đi đúng đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, thì việc tổ chức thành lập thư viện có quyền quyết định chia tách, sát nhập, giải thể thư viện hoặc thay đổi nội dung hoạt động cũng là vấn đề quan trọng . Khi chia tách, sát nhập thư viện, tổ chức thành lập thư viện phải làm lại thủ tục đăng ký hoạt động là điều kiện cần thiết. Việc này đòi hỏi mỗi tổ chức muốn thành lập mới một thư viện phải tuân thủ những thủ tục, tiêu chuẩn, điều kiện do cơ quan quản lý thư viện ban hành.

Quản lý hợp tác quốc tế về thư viện là điều cần thiết phù hợp với thực tế khách quan hiện nay. Chúng ta đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế về thư viện theo hướng hợp tác và hội nhập với thế giới bên ngoài; nghiên cứu áp dụng những kinh nghiệm tiên tiến nước ngoài trong lĩnh vực tổ chức hoạt động thông tin – thư viện, tuân thủ những chuẩn quốc tế trong nghiệp vụ để dễ dàng trao đổi thông tin; với quan điểm công nghệ thông tin thư viện đóng vai trò chủ đạo trong phát triển thông tin thư viện. Đây là một kênh quan trọng để trao đổi thu thập tài liệu nước ngoài vào Việt Nam.

Thông qua công tác thi đua khen thưởng, các thư viện sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của Đại hội Đảng các cấp đề ra và kế hoạch công tác của ngành, cơ quan mình. Điều quan trọng là lãnh đạo ngành thư viện phải nhạy bén với tình hình hoạt động của ngành trong từng thời kỳ để tổ chức các hoạt động thi đua phù hợp cùng với việc thi đua thường xuyên dành danh hiệu đơn vị xuất sắc hoặc thưởng cờ luân lưu... Ngoài việc đề ra các chỉ tiêu cụ thể về số lượng cần chú ý đến chất lượng công tác về hiệu quả phục vụ sách báo cho nhân dân, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước trong thời kỳ mới. Tổ chức chỉ đạo tốt công tác này sẽ động viên khuyến khích những đơn vị tập thể thư viện và cá nhân hoạt động xuất sắc trong lĩnh vực thư viện, kịp thời tuyên dương những tập thể và cá nhân ngành thư viện trong tổ chức và hoạt động thư viện đạt hiệu quả cao, phát huy sức mạnh nội lực của cá nhân và tập thể thư viện trong việc xây dựng và phát triển sự nghiệp thư viện.

Thứ ba, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về thư viện

Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về thư viện là một bộ phận rất nhỏ nằm trong công tác thanh tra nói chung, góp phần giúp cho các cơ quan cấp trên và các lãnh đạo nắm được khả năng thực chất của ngành mình, của thư viện mình, nhằm động viên kịp thời những việc làm tốt, phát hiện các sai sót khuyết điểm của hệ thống thư viện trong quá trình hoạt động, từ đó đề ra giải pháp xử lý, đồng thời tìm kiếm các cơ hội, các nguồn lực để

 

có thể khai thác, hỗ trợ, thúc đẩy hệ thống thư viện sớm đạt mục tiêu nhất định. Thanh tra kiểm tra nhằm thúc đẩy thực hiện các quyết định về nhiều lĩnh vực, để khẳng định sự đúng đắn của đường lối, phát triển thư viện; thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược phát triển các thư viện. Ở từng thư viện, bộ phận thanh tra được tập thể cán bộ thư viện bầu ra trong đại hội công nhân viên chức, có nhiệm vụ giám sát các hoạt động của thư viện và đặc biệt là giải quyết các đơn từ khiếu nại kiện tụng. Nghị định của Chính phủ số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/03/2021 đã có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo, tại mục 6 – hành vi vi phạm về thư viện, chương 2 (Hành vi vi phạm hành chính hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực văn hoá) quy định cụ thể từ điều 26 đến điều 29 của Nghi định này.

+ Điều 26: Vi phạm quy định cấm trong hoạt động thư viện;

+ Điều 27: Vi phạm quy định về hoạt động của thư viện cộng đồng, thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng, thư viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài có phục vụ người Việt Nam;

+ Điều 28: Vi phạm quy định về quyền và trách nhiệm của thư viện cộng đồng, thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng, thư viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài có phục vụ người Việt Nam;

+ Điều 29: Vi phạm quy định về nghĩa vụ của người làm công tác thư viện. [16, tr34-36].

 

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Di sản văn hoá là gì? Trình bày vai trò của di sản văn hoá trong phát triển kinh tế - xã hội?

2. Trình bày khái niệm và phân loại bảo tàng? Phân tích nội dung quản lý nhà nước về bảo tàng?

3. Liệt kê các loại hình thư viện và lấy ví dụ cụ thể đối với các loại thư viện đó? Phân tích nội dung quản lý nhà nước về thư viện?

4. Xây dựng một mô hình thiết chế văn hóa là sự kết hợp giữa bảo tàng và thư viện sao cho đảm bảo 3 yêu cầu : bảo tồn và phát huy giá trị di sản, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhất 

CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Cơ hội và thách thức đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá trong giai đoạn hiện nay?

2. Làm thế nào để khai thác giá trị kinh tế - văn hóa của bảo tàng trong loại hình du lịch văn hóa một cách hiệu quả và bền vững ?

3. Bảo tàng/Thư viện có những yếu tố gì để có thể thu hút xã hội hóa, tự chủ tự quản về ngân sách? Chứng minh thực tiễn đó đối với thiết chế văn hoá bảo tàng/thư viện Quảng Ninh giai đoạn từ năm 2013 đến nay?

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 4

[1]. Quốc hội, Luật Di sản văn hóa 2001 Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2001. [2]. Quốc hội, Luật Di sản văn hóa 2009, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2009.

[3]. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Quyết định số 47/2008/QĐBVHTTDL, ngày 3/7/2008 Quy định về tiêu chuẩn, trách nhiệm của cán bộ và người thực hành bảo quản hiện vật bảo tàng, 2008.

[4]. Quốc hội, Luật Thư viện 2019, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2019.

[5]. L.H.Lý, D.V.Sáu, Đ.H. Thu, “Quản lý di sản văn hoá với phát triển du lịch”, Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.

[6]. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 38/2021/NĐ-CPngày 29/3/2021 ban hành Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá và quảng cáo, 2021.

[7] Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2017, Quy định về bảo vệ quản lý Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam, 2017.

[8]. Ban chấp hành TW, ”Báo cáo Kế thừa và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc; Xây dựng, phát triển văn hoá sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; Các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hoá, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, ngày 22 tháng 11 năm 2021 tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc.

[9]. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 166/2018/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2018, Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt, quy hoạch dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử- văn hoá, danh lam thắng cảnh.

[10]. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Thông tư số 15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31 tháng 12 năm 2019, Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.

[11]. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 93/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2020, Quy định chi tiết một số điều của Luật Thư viện.

[12].Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Thông tư số 01/2020/TT-BVHTT&DL ngày 22 tháng 5 năm 2020, Quy định các mẫu văn bản thông báo thành lập, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, chấm dứt hoạt động thư viện;

[13]. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Thông tư số 02/2020/TT-BVHTT&DL ngày 25 tháng 5 năm 2020, Quy định về bảo quản, thanh lọc tài nguyên thông tin và tài nguyên thông tin hạn chế sử dụng trong thư viện;

 


 

Chương 5

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ

QUYỀN TÁC GIẢ, QUYỀN LIÊN QUAN


5.1. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ, QUYỀN LIÊN QUAN

5.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc bảo vệ quyền tác giả

5.1.1.1. Khái niệm quyền tác giả

Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền tác giả của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học. Quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm [31].

Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể (Quyền tài sản và quyền nhân thân) của chủ thể với tư cách là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm và quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm.

5.1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả

Đối tượng của quyền tác giả luôn mang tính sáng tạo được bảo hộ không phụ thuộc vào giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

Quyền tác giả thiên về bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm: Quyền tác giả đối với tác phẩm chỉ được giới hạn trong phạm vi thể hiện cụ thể của tác phẩm mà không bao gồm ý tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm bởi vì không một ai có thể biết được một vấn đề đang nằm trong suy nghĩ của người khác. Những ý tưởng, kể cả cách sắp xếp, trình bày đã “có” trong suy nghĩ của tác giả nhưng chưa thể hiện được ra bên ngoài bằng hình thức nhất định thì không có căn cứ để công nhận và bảo hộ những điều chưa được bộc lộ ra bên ngoài đó. Sự sáng tạo của tác giả không chỉ đem lại cho tác giả quyền tác giả đối với tác phẩm mà còn

 

nhằm chống lại sự sao chép nó hoặc lấy vào sử dụng hình thức trong tác phẩm gốc đã được thể hiện [32].

Quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối: Đối với các tác phẩm đã được công bố phổ biến và các tác phẩm không bị cấm sao chụp thì cá nhân, tổ chức được phép sử dụng tác phẩm của người khác nếu sử dụng nó không nhằm mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng khai thác bình thường sửa tác phẩm, không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, chẳng hạn như việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích tuyên truyền cổ động; phục vụ cho chính sách kinh tế, văn hóa, chính trị cho người dân ở vùng sâu, vùng xa; cá nhân đọc truyện, xem phim để thưởng thức nghệ thuật, âm nhạc hiểu biết khoa học, cuộc sống thì không bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.

5.1.1.3. Các nguyên tắc bảo vệ quyền tác giả

a) Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân

Quyền tự do sáng tạo của cá nhân được xây dựng trên nguyên tắc: “Cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” (Điều 62, Hiến pháp năm 2013). Những quy định tại Điều 25 và Điều 60 Hiến pháp năm 2013 cũng thể hiện sự bảo đảm bằng pháp luật với những cá nhân sáng tạo các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Các quy định này bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở loại trừ các tác phẩm có nội dung phản động, đồi trụy, mê tín, hủ tục.

b) Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể

Nguyên tắc bình đẳng được quy định tại điều 16, chương 2, Hiến pháp năm 2013: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội” [6]. Nguyên tắc này là tư tưởng chỉ đạo các định hướng cho tất cả các ngành luật khi ghi nhận và đảm bảo quyền lợi chính đáng của cá nhân. Bằng tài năng sáng tạo, tạo nên tác phẩm hay công trình khoa học của mình, các tác giả của những sản phẩm trí tuệ đó đều có các quyền về tinh thần và vật chất như nhau. Các tác giả hoàn toàn có quyền định đoạn các quyền của mình có được từ tác phẩm.

c) Nguyên tắc bảo đảm không trùng lặp tác phẩm

Tác phẩm là thành quả lao động sáng tạo của tác giả được thể hiện dưới hình thức nhất định. Do đặc tính vô hình mà tác giả cũng không thể kiểm soát được, vì vậy nguyên tắc bảo đảm tính không trùng lặp của tác phẩm được thể

 

hiện ở những tác phẩm có tính sáng tạo, phải là bản gốc, bảo đảm tính toàn vẹn của tác phẩm.

5.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền liên quan

5.1.2.1. Khái niệm quyền liên quan

Quyền liên quan đến quyền tác giả (gọi tắt là quyền liên quan) được giải thích tại khoản 3 Điều 4, phần 1- Những quy định chung của Luật sử hữu trí tuệ, 2019 là: “Quyền của tổ chức cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa” [32].

Trong công ước Berne, quyền liên quan được đề cập với thuật ngữ “quyền kề cận”cũng nhằm để xác định quyền của cá nhân, tổ chức đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng... Luật bản quyền của một số nước cũng xác định quyền liên quan (quyền kề cận) là quyền dành cho người biểu diễn, cá nhân, tổ chức ghi âm, ghi hình, phát sóng, truyền cáp. Để tác phẩm đến được với đông đảo công chúng thì vai trò của người biểu diễn, của các tổ chức băng, đĩa ghi âm ghi hình, các tổ chức thực hiện chương trình phát sóng là thật sự cần thiết. Hoạt động của cá nhân, tổ chức này là là phương thức chuyển tải tác phẩm tới công chúng, theo đó quyền của họ được pháp luật bảo hộ.

Thứ nhất, đó là các quyền nhân thân, quyền tài sản của các cá nhân, tổ chức thực hiện việc chuyển tải, truyền đạt tác phẩm tới công chúng thông qua việc biểu diễn tác phẩm, sản xuất bản ghi âm, ghi hình và phát sóng tác phẩm.

Thứ hai, đó là tổng hợp các quy định của pháp luật để xác định và bảo vệ các quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, tổ chức đối với cuộc biểu diễn tác phẩm, cá nhân, tổ chức sản xuất bản ghi hình, phát sóng tác phẩm.

5.1.2.2. Đặc điểm của quyền liên quan

Hoạt động của các chủ thể quyền liên quan chính là hành vi sử dụng tác phẩm đã có. Người tổ chức sản xuất băng đĩa ghi âm, ghi hình cuộc biểu diễn tổ chức phát sóng cuộc biểu diễn và các chủ thể khác sử dụng tác phẩm như ca sĩ biểu diễn ca khúc, nhạc công biểu diễn bản nhạc, nghệ sĩ trình bày bài thơ, cá nhân hay tổ chức sản xuất đĩa ghi hình để định hình một hoặc nhiều tác phẩm hội họa...Bên cạnh các quyền được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các chủ thể sử dụng tác phẩm còn có các nghĩa vụ đối với tác giả.

Đối tượng được bảo hộ khi có tính nguyên gốc: Tính chất này của quyền liên quan được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, có thể là kết quả của lao động sáng tạo và mang dấu ấn cá nhân. Chẳng hạn, việc trình bày bài hát của ca sĩ, trình bày bản nhạc không lời của nghệ sĩ piano luôn mang tính sáng tạo và

 

mang đậm dấu ấn cá nhân. Tính nguyên gốc của quyền liên quan còn được thể hiện ở việc quyền liên quan chỉ được xác định theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu tiên. Quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình chỉ được xác định cho người tạo ra bản định hình đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc quyền liên quan đối với chương trình phát sóng chỉ được xác định cho người tạo ra bản định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh hình ảnh khác hoặc quyền liên quan đối với chương trình phát sóng chỉ xác định được ai là chủ thể của quyền liên quan và theo đó xác định được các hành vi xâm phạm quyền liên quan. Tất cả các bản ghi âm, ghi hình cuộc biểu diễn, chương trình phát sóng biểu diễn, chương trình phát sóng nếu không mang tính nguyên gốc đều bị coi là sự sao chép và không được thừa nhận các quyền liên quan đến đối tượng đó.

5.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUYỀN TÁC GIẢ, QUYỀN LIÊN QUAN

5.2.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

5.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là việc Nhà nước ban hành pháp luật và sử dụng pháp luật như một công cụ quản lý, tác động lên các hoạt động liên quan đến quyền tác giả theo những phương thức nhất định, nhằm đạt mục đích quan trọng của Nhà nước là bảo đảm được quyền lợi của chủ thể sáng tạo, khuyến khích hoạt động sáng tạo, đồng thời đảm bảo quyền, lợi ích của người khai thác, sử dụng và công chúng hưởng thụ.

Ngoài quản lý bởi nhà nước thì quyền tác giả còn có quản lý tập thể, quản lý tập thể là việc thực hiện quyền tác giả và các quyền liên quan bởi các tổ chức thay mặt cho tác giả và vì lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả. Ví dụ, Trung Tâm Bảo vệ Quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam là một mô hình quản lý tập thể quyền tác giả thành công.

5.2.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có các đặc điểm sau:

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là quản lý thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng.

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả mang tính chuyên môn hóa, và nghề nghiệp cao.

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả gắn bó mật thiết với yêu cầu khách quan của quan hệ thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

 

5.2.2. Nội dung, vai trò quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

5.2.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

Về lĩnh vực quyền tác giả, nội dung hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật được quy định tại điều 5 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả và quyền liên quan. Theo đó, hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả gồm các nhóm nội dung cơ bản sau đây:

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước về quyền tác giả

Quản lý nhà nước về quyền tác giả đòi hỏi nhà nước phải ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật về quyền tác giả để điều chỉnh các quan hệ về quyền tác giả mà Nhà nước xác định cần có sự tác động điều chỉnh bằng pháp luật.

Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm phạm pháp luật về quyền tác giả phải thể chế hóa được các chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, phải phủ hợp với thực tiễn, phản ánh được xu thế vận động của các quy luật khách quan. Đáp ứng yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả trong tình hình hiện nay, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, và đáp ứng được những thay đổi nhanh chóng về khoa học, công nghệ, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Một số văn bản qui phạm pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan đã được ban hành:

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019.

Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.

Tổ chức thực hiện pháp luật về quyền tác giả

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, có chất lượng cao là tiền đề cho hoạt động quản lý nhà nước. Tổ chức thực hiện pháp luậtlà bước quan trọng tiếp theo của quản lý nhà nước. Tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực quyền tác giả bao gồm:

 

a) Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về quyền tác giả

b) Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả

c) Hướng dẫn việc cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm

đ) Quản lý hoạt động cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả

e) Quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả; hoạt động đại diện, tư vấn, dịch vụ quyền tác giả

g) Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả

h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về quyền tác giả

i,Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả

5.2.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

Một là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả; khuyến khích đầu tư sáng tạo; cân bằng lợi ích của tác giả, lợi ích của người khai thác, sử dụng và công chúng hưởng thụ

Việc bảo hộ quyền tác giả là một trong những công cụ hữu hiệu nhằm khuyến khích các tác giả sáng tạo ra các tác phẩm làm giàu kho tàng tri thức. Số lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật càng nhiều thì tài sản trí tuệ của quốc gia đó càng lớn, lực lượng những người góp phần sáng tạo trong việc đưa tác phẩm đến với công chúng Trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của quốc gia, bên cạnh việc bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tác giả, chủ sở hữu quyền, để đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền, người khai thác sử dụng và công chúng hưởng thụ, nhà nước thông qua pháp luật quy định các giới hạn quyền và các ngoại lệ nhất định để công chúng có thể tiếp cận được các tác phẩm một cách tự do, tuy nhiên phải tuân theo những điều kiện nhất định.

Hai là góp phần bảo đảm phát triển công nghiệp bản quyền và phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội

Quyền tác giả và sự phát triển kinh tế ngày càng trở nên gắn bó chặt chẽ, bởi vì sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đang là vấn đề nổi bật trong các cuộc tranh luận, đàm phán kinh tế quốc tế, nó đã trở thành một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế.

 

Việc bảo hộ quyền tác giả hiệu quả sẽ tạo ra một cơ chế tác động qua lại về lợi ích giữa những người sáng tạo và lợi ích chung của xã hội thông qua việc công bố, phổ biến tác phẩm phục vụ công chúng, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Sự thừa nhận quyền tác giả đối với các sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học có tác dụng khuyến khích việc sáng tạo, thông qua sự sáng tạo cũng kích thích sự phát triển kinh tế.

Ba là góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế

Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế với phương châm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước. Thực tế, Việt nam đã thiết lập quan hệ với nhiều nước, vùng lãnh thổ và tổ chức trên thế giới. Để quá trình hợp tác, hội nhập quốc tế diễn ra thuận lợi, đạt mục đích đặt ra một cách tốt nhất, hai bên đều phải tìm hiểu truyền thồng văn hóa, mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nhau và cách tìm hiểu đạt hiệu quả cao và phổ biến là trao đổi các tác phẩm cho nhau. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam có vai trò giải quyết vấn đề này thông qua việc tham gia các điều ước quốc tế, xác định rõ các tác phẩm của các tổ chức, cá nhân nước ngoài được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam và đồng thời xác định rõ tác phẩm của công dân, tổ chức của Việt Nam được hưởng sự bảo hộ tại những quốc gia nào.

5.2.2.3. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả

Thứ nhất, Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về quyền tác giả

Một xã hội văn minh là một xã hội sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không được điều chỉnh bằng một ý chí thống nhất, xã hội không có trật tự kỉ cương. Tác giả, đảm bảo đúng yêu cầu, mục đích của chủ thể quản lý. Tính minh bạch công khai của các quy phạm pháp luật về quyền tác giả cần phải được thể hiện ngay từ quá trình xây dựng pháp luật, để người dân có điều kiện tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản pháp luật, tham gia thảo luận, góp ý kiến, qua đó đề cao dân chủ, góp phần nâng cao ý thức tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội của nhân dân.

Thứ hai, Năng lực, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức thực hiện quản lý nhà nước về quyền tác giả

Cán bộ, công chức nhà nước không chỉ gương mẫu trong cuộc sống và làm việc theo pháp luật mà còn phải biết cách tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định pháp luật. Hiểu biết pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng để có thái độ đúng đắn đối với pháp luật, với quá trình tích cực, tự

 

giác thực hiện pháp luật, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.

Thứ ba, Ý thức của người dân về pháp luật quyền tác giả

Ý thức pháp luật của mỗi cá nhân, tổ chức và cả xã hội nói chung là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật đạt hiệu quả. Ý thức pháp luật được hiểu là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật.

Nhìn chung, trong một xã hội phát triển, trình độ văn hóa của nhân dân ngày càng được nâng cao sẽ tạo cơ sở thực hiện giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Nhờ có trình độ văn hóa nhất định mới có thể tiếp thu, nhận thức, nâng cao hiểu biết pháp luật, xây dựng tình cảm, lòng tin vào pháp luật và chuyển hóa thành hành vi tích cực thực hiện theo yêu cầu của pháp luật. Khi ý thức của các chủ thể trong quan hệ pháp luật quyền tác giả về quyền và nghĩa vụ của mình được thể hiện đầy đủ, tự giác, nhận thức trong xã hội về sự cần thiết của việc bảo hộ quyền tác giả được nâng cao, sẽ hình thành văn hóa pháp lý về quyền tác giả trong xã hội.

Việc xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật về quyền tác giả trong nhân dân là quá trình nâng cao sự hiểu biết pháp luật về quyền tác giả của mỗi người dân, khuyến khích thói quen sống, làm việc theo pháp luật, tạo năng lực đánh giá đúng đắn và thực hiện các hành vi trong xã hội

Thứ tư, Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả

Trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, đặc biệt là internet, vấn đề bảo hộ quyền tác giả không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia mà nó đã trở thành vấn đề mang tính chất quốc tế. Trong điều kiện giao lưu văn hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, giá trị khoa học, nghiên cứu, giáo dục của các tác phẩm là các tác giả ở nước phát triển có thể được khai thác, sử dụng ở một nước đang phát triển, và ngược lại. Về nguyên tắc, luật quyền tác giả của một nước chỉ có hiệu lực ở nước đó, việc bảo hộ quyền tác giả chỉ bó hẹp trong phạm vi của từng nước. Trong khi đó, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ngày càng được sáng tạo ra nhiều hơn, và chúng đã vượt biên giới các nước như một loại hàng hóa, không một ai có thể ngăn cản.

Bảo hộ quyền tác giả là một lĩnh vực còn mới mẻ ở các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Thông qua hợp tác quốc tế, các quốc gia phát triển, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, với kinh nghiệm lâu năm trong

 

việc bảo hộ quyền tác giả, có thể giúp đỡ các quốc gia đang phát triển về chuyên môn, kỹ thuật, tài chính để bảo hộ quyền tác giả đạt hiệu quả.

5.2.2.4. Chủ thể quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

Theo quy định của pháp luật, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ, chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý nhà nước về quyền tác giả. Theo Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và sửa đổi bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.

Cục Bản quyền tác giả thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

Cục Bản quyền tác giả là tổ chức thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong cả nước theo chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Cục Bản quyền tác giả có con dấu riêng, có tài khoản tại Kho bạc Nhà nước.

Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Bản quyền tác giả quy định tại Quyết định số 3954/QĐ-BVHTTDL ngày 20 tháng 10 năm 2017.

5.2.2.5. Thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan giai đoạn hiện nay

a) Một số kết quả quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan đã đạt được trong thời gian qua:

Xây dựng, ban hành và tuyên truyền,hướng dẫn việc thực hiện các văn bản pháp luật về quyền tác giả

Nhằm khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia vào việc sáng tạo và phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, đồng thời bảo vệ lợi ích của công chúng hưởng thụ.

Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả

 

Luật pháp quy định sự bảo hộ không chỉ dành cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mà còn dành cho cả những người góp phần phổ biến các tác phẩm đó đến công chúng. Việc bảo hộ tốt quyền lợi của những cá nhân, tổ chức này sẽ gián tiếp bảo hộ quyền lợi của tác giả. Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định chi tiết những biện pháp tự bảo vệ quyền, và những biện pháp xử lý hành vi xâm phạm, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả [33].

Hướng dẫn việc cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm

Pháp luật sở hữu trí tuệ quy định tác giả có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra. Khi tác giả sáng tạo tác phẩm theo nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng đặt hàng hoặc chuyển giao quyền tác giả cho tổ chức, cá nhân khác thì tác giả chỉ còn giữ quyền nhân thân Hoạt động khai thác, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan trong thời gian qua cũng đang gặp những khó khăn, chủ yếu do việc nhiều tác phẩm bị sử dụng trái phép, hoặc chủ sở hữu tác phẩm khó xác định giá cả, thoả thuận mức tiền bản quyền khi khai thác, chuyển giao, thu tiền bản quyền của các đối tượng sử dụng [31].

Quản lý hoạt động cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả

Theo quy định của pháp luật, đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan không phải là thủ tục bắt buộc để được hưởng quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, nhận thức được lợi ích của việc đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan; nhiều tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan đã nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.

Việc cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan trung bình mỗi năm Cục xử lý khoảng 100 hồ sơ do các lý do về tranh chấp quyền tác giả, quyền liên quan. Việc hủy bỏ, cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền tác giả, giấy chứng nhận quyền liên qua được thực hiện đúng quy trình, thủ tục pháp lý và yêu cầu của các bên có liên quan.

Quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả; hoạt động đại diện, tư vấn, dịch vụ quyền tác giả

Hoạt động giám định về quyền tác giả, quyền liên quan được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đánh giá là một trong những hoạt động chuyên môn cao, trong thời gian qua, Bộ đã tiếp nhận và xử lý hồ sơ theo Đơn yêu cầu giám định 14 vụ việc; tư vấn, hướng dẫn, cho ý kiến chuyên môn thuộc thẩm quyền về quy

 

trình thủ tục yêu cầu giám định quyền tác giả, quyền liên quan cho các tổ chức, cá nhân; thực hiện số hóa toàn bộ 14 hồ sơ yêu cầu giám định.

Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả trong những năm vừa qua đã thu được những kết quả đáng kể. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 05 công ước quốc tế đa phương:

+ Công ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật từ ngày 26/10/2004.

+ Công ước Geneve về bảo hộ nhà xuất bản, ghi âm chống việc sao chép không được phép từ ngày 06/07/2005.

+ Công ước Brussel liên quan đến việc phân phối tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa qua vệ tinh từ ngày 12/01/2006.

+ Công ước Rome về bảo hộ quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng từ ngày 1/3/2007.

+ Hiệp định TRIPs về khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ từ ngày 12/1/2007.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả nói riêng, công tác đấu tranh chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung, so với những năm trước đây đã có những chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động, góp phần tích cực bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, và các chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao hiệu lực của pháp luật, hiệu quả quản lý, thực thi, góp phần phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội.

b) Những hạn chế và nguyên nhân:

Trong việc xây dựng, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về quyền tác giả

Hầu hết các quan hệ xã hội về quyền tác giả đã được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật, cơ bản phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo tiền đề cho hoạt động hội nhập. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục trong hoạt động lập pháp, đó là có một số quy định chưa rõ ràng, chưa phù hợp với các Điều ước quốc tế, việc hướng dẫn thi hành chưa đồng bộ, đã gây khó khăn cho việc quản lý, điều hành và thực thi cần được điều chỉnh, bổ sung phù hợp.

Trong thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả

 

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực ngăn chặn từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng hầu hết các khách thể quyền đều bị xâm hại, từ các loại hình tác phẩm đến các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Tình trạng này được biểu hiện ở các hình thức sử dụng, khai thác khác nhau, từ hoạt động xuất bản, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh đến phát thanh truyền hình...

Hoạt động sáng tạo chân chính đang bị cản trở và có nguy cơ bị thui chột vì tệ nạn sao chép:

Lĩnh vực chương trình máy tính: chương trình máy tính tiếp tục bị sao chép và phân phối bất hợp pháp bởi các cơ sở kinh doanh máy tính, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, cho ngành công nghệ thông tin còn non trẻ của Việt Nam.

Lĩnh vực xuất bản: Tình trạng in lậu sách diễn ra thường xuyên, số lượng các vụ in lậu, vi phạm quyền tác giả lẫn nhau vẫn không giảm, tính chất các vụ vi phạm ngày càng phức tạp..

Môi trường kỹ thuật số: tình trạng sử dụng bất hợp pháp trong môi trường kỹ thuật số có nhiều diễn biến phức tạp. Các hành vi xâm hại, gian lận diễn ra tinh vi, khó kiểm soát đã đưa môi trường số vào loại hình khó khăn nhất trong việc bảo hộ tại các quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển.

Trong hoạt động quản lý tập thể quyền tác giả

Hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả vẫn là cách thức tốt nhất để bảo đảm quyền lợi những người sáng tạo trong thời đại số. Mặc dù tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả được hình thành và đi vào hoạt động tại Việt Nam đã đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ.

Hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả ở nước ta hiện nay mới chỉ dừng ở việc thực hiện cấp phép khai thác, sử dụng tác phẩm, thu và phân phổi tiền bản quyền, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và thông tin cho hội viên, gửi văn bản đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khi có vụ việc tranh chấp.

Trong quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả

Giám định quyền tác giả, quyền liên quan là một dạng của giám định tư pháp theo đó người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám hộ.

 

Trong thời gian tới, cần có những quy định chi tiết, cụ thể hơn về những vấn đề nêu trên để hoạt động giám định quyền tác giả được thuận lợi, góp phần tích cực giải quyết nút thắt về nguồn chứng cứ hợp lệ, thúc đẩy quá trình giải quyết các tranh chấp về quyền tác giả.

Trong hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luôn đặt ra vấn đề là làm sao để tận dụng được những cơ hội, tiếp thu những cái mới, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế, xã hội để nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời bảo vệ được lợi ích của đất nước, giữ gìn những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa của đất nước.

Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được Trung tâm thông tin quốc gia về quyền tác giả theo quy định tại Điều IV phụ lục Công ước Berne. Trong bối cảnh hiện nay khi các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh gặp nhiều trở ngại, trong đó có các quy định cần xác định rõ ràng về bản quyền, quyền tác giả, quyền liên quan đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá.

Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả

Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả của lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch thực hiện chưa thường xuyên, xử lý không dứt điểm, chỉ tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.

Qua thực tiễn thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về quyền tác giả cho thấy hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm mới chỉ tập trung ở lĩnh vực phần mềm máy tính, các lĩnh vực khác hầu như còn chưa được sự quan tâm chú ý của lực lượng thanh tra, đặc biệt là Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Một số căn nguyên chung của các hạn chế Quyền tác giả là một lĩnh vực mới ở Việt Nam cho nên nhận thức và hiểu biết của các cơ quan quản lý, sự thống nhất quản lý, chỉ đạo của các cấp chưa đầy đủ, ý thức chấp hành và hiểu biết của nhân dân, kể cả các tác giả và tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan còn thấp. Từ đó, việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả còn có những hạn chế, đặc biệt là việc thực thi các quy định của pháp luật về quyền tác giả. Tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực với các hình thức và mức độ khác nhau, nhất là trong lĩnh vực âm nhạc, văn học, chương trình máy tính, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, kỹ thuật số .v.v.

 



CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Nêu khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả, quyền liên quan?

2. Trình bày nội dung quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan? Sinh viên lấy những tình huống thực tiễn về việc vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên các kênh truyền thông, ấn phẩm xuất bản, báo chí?

3. Phân tích những yếu tố tác động tới quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan?

CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Lĩnh vực hoạt động văn hóa nào dễ bị xâm phạm quyền tác giả nhất? Vì sao?

2. Hình thức xâm phạm quyền tác giả phổ biến nhất trong mỗi lĩnh vực lĩnh vực: điện ảnh, âm nhạc, thời trang?

3. Ca sĩ hát trong đám cưới có cần trả tiền cho tác giả bài hát không? Quy định nào về quyền giả và quyền liên quan vẫn còn chưa thực sự khả thi trong thực tiễn hoạt động quản lý của Nhà nước?

4. Có ý kiến cho rằng: “Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực văn hóa không quan trọng bằng những lĩnh vực khác như khoa học, kĩ thuật, công nghệ”. Quan điểm của sinh viên đối với ý kiến đó như thế nào?

 




TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 5

[1]. Quốc hội (2019). Luật Sở hữu trí tuệ 2019..

[2] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2013.

[3]. V. T.T.Tú, Tổng quan về quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan - Một số đối chiếu với quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan ở các nước phát triển, chương trình nghiên cứu do Wallonie - Bruxelles International tài trợ, 2010.

[4]. B.N. Hùng. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan ở nước ta hiện nay. (Chuyên đề số 6, Đề tài NCKH về tài sản ảo, Ủy ban Kinh tế Quốc hội, 2009).

[5].M.M. Quang, “Nâng cao năng lực của các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Khoa học và Công nghệ, VNU, 2017.

 


 

Chương 6

VI PHẠM HÀNH CHÍNH

VÀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA


6.1. VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA

6.1.1. Một số khái niệm

- Khái niệm vi phạm hành chính: Theo Khoản 1, Điều 2 của Luật xử lý vi phạm hành chính (VPHC) năm 2012, “VPHC là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC” [34].

- Khái niệm vi phạm hành chính: Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật xử lý VPHC năm 2012, “VPHC trong lĩnh vực văn hóa là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC”

- Khái niệm xử lý VPHC trong lĩnh vực văn hóa: Theo Luật xử lý VPHC năm 2012, “Xử lý VPHC là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự”[34]. Xử lí VPHC bao gồm xử phạt VPHC và áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác.

- Khái niệm xử phạt VPHC: Theo Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý VPHC 2012 quy định, “Xử phạt VPHC là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC theo quy định của pháp luật về xử phạt VPHC” [34].

 

- Khái niệm xử lý hành chính: Theo khoản 3, khoản 4 Điều 2 Luật Xử lý VPHC, xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, còn có biện pháp thay thế xử lý VPHC là biện pháp mang tính giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt VPHC hoặc biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên VPHC, bao gồm biện pháp nhắc nhở và biện pháp quản lý tại gia đình.

Trong hoạt động xử lý VPHC lĩnh vực văn hóa gồm có nhiều hoạt động xử lý VPHC liên quan đến nhiều lĩnh vực như: Xử lý VPHC trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật; xử lý VPHC trong lĩnh vực kinh doanh hoạt động karaoke; xử lý VPHC trong lĩnh vực Lễ hội…Tuy nhiên, do tính chất phức tạp trong lĩnh vực kinh doanh karaoke nên hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực kinh doanh karaoke diễn ra nhiều hơn cả.

Xử lý VPHC trong lĩnh vực văn hóa là thuật ngữ pháp lý tuy rộng, nhưng nó được dùng để chỉ việc xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa và các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Nghị định 38/2001/NĐ-CP, ngày 29 tháng 3 năm 2021 cụ thể tại chương 2 (hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phát và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực văn hoá) như sau:

+ Mục 1: Hành vi vi phạm về điện ảnh (từ điều 6 đến điều 10);

+ Mục 2: Hành vi vi phạm về hoạt động nghệ thuật biểu diễn (từ điều 11 đến điều 13);

+ Mục 3: Hành vi vi phạm về tổ chức lễ hội; kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường, hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá cộng đồng (từ điều 14 đến điều 16);

+ Mục 4: Hành vi vi phạm về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm (từ điều 17 đến điều 19);

+ Mục 5: Hành vi vi phạm về di sản văn hoá (từ điều 20 đến điều 25);

+ Mục 6: Hành vi vi phạm về thư viện (từ điều 26 đến điều 29).

6.1.2. Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa

* Đặc điểm của hành vi vi phạm hành chính

Tính trái pháp luật của hành vi: Là hành vi thực hiện ngược lại với quy định của pháp luật, hành vi bị pháp luật cấm thực hiện hoặc không thực hiện hành vi

 

mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện. Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 đã nêu rõ “khi xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay cho cơ quan có thẩm quyền xử lý hình sự”.

VPHC phải là hành vi có lỗi. Lỗi là trạng thái tâm lý, thái độ của người vi phạm đối với hành vi, hậu quả của hành vi đó tại thời điểm thực hiện hành vi. Những người bình thường đạt tới độ tuổi nhất định đều có khả năng điều khiển, nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi. Không có lỗi thì không coi là VPHC.

VPHC là hành vi bị xử phạt hành chính. Nhà làm luật quy định những hành vi nào là VPHC và định ra biện pháp, mức phạt đối với hành vi đó. Một hành vi không bị xử phạt hành chính thì không phải là VPHC.

Tính trái pháp luật của hành vi: Là hành động thực hiện ngược lại với quy định của pháp luật, hành động bị pháp luật cấm thực hiện hoặc không thực hiện hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện. Hành vi hành chính được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động hoặc không hành động (Ví dụ: Đốt vàng mã không đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội).

Tóm lại, có thể nhận diện dấu hiệu vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa như sau: Là hành vi thể hiện bằng hành động hoặc không hành động mà xâm hại hoặc làm ảnh hưởng đến các hoạt động văn hóa (hoạt động Lễ hội, biểu diễn nghệ thuật,v.v.). Hành vi trái pháp luật.; Hành vi có lỗi (Không có lỗi thì không coi là VPHC). Trong đó xác định được khách thể và chủ thể cũng như mặt khách quan và chủ quan của hành vi vi phạm hành chính cụ thể là:

Khách thể của VPHC: Là những quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước bị các VPHC xâm phạm và làm tổn hại. Khách thể cụ thể của VPHC rất đa dạng, đó là: Sở hữu Nhà nước, quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân; trật tự an toàn giao thông; trật tự quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, y tế.v.v. Ví dụ: Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực du lịch, thể thao.

Chủ thể của VPHC: Là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực hành vi pháp luật hành chính. Nghĩa là những người mắc bệnh tâm thần và các bệnh thần kinh khác, không có khả năng, hoặc hạn chế khả năng nhận thức thì không bị xử phạt VPHC. Chủ thể của VPHC trong lĩnh vực văn hóa, cụ thể là trong hoạt động lễ hội, biểu diễn nghệ thuật và karaoke có thể là cá nhân hay tổ chức kể trên.

Mặt khách quan của VPHC: VPHC có hình thức biểu hiện là hành vi. Những suy nghĩ xấu chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì chưa phải là vi phạm pháp luật. Hành vi có thể biểu hiện dưới hình thức hành động (làm hàng

 

giả, kinh doanh trái phép) hoặc không hành động (không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy). Ngoài ra, khi xem xét mặt khách quan của VPHC cần tính đến một số yếu tố như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm. Các điều kiện của mặt khách quan của VPHC: Được ý chí kiểm soát và điều khiển.

Mặt chủ quan của VPHC. Khi xem xét, đánh giá một vi phạm cần chú ý tới yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của VPHC. Lỗi được chia thành 2 hình thức là: Lỗi cố ý và lỗi vô ý.

Ví dụ: Tổ chức Lễ hội có báo cáo về cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng ý mà vẫn tổ chức. Mục đích của hành vi này là tổ chức lễ hội, lỗi cố ý ở đây thể hiện ở chỗ chủ thể có hành vi vi phạm, nhận thức được hành vi của mình gây ra vì đã có báo cáo gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi không được sự đồng ý nhưng vẫn thực hiện. Hoặc hành vi phát hành vé quá số ghế tại nơi tổ chức biểu diễn nghệ thuật. Lỗi cố ý ở đây thể hiện ở chỗ chủ thể cũng đã có hành vi vi phạm, nhận thức được tính chất hành vi là vượt quá số ghế so với thực tế nhưng vẫn cố tình thực hiện để chuộc lợi.

*Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa

Một là, VPHC là hành vi trái pháp luật xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa. Hành vi trái pháp luật hành chính được thể hiện dưới dạng hành động (chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật hành chính ngăn cấm) hoặc không hành động (chủ thể không thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính bắt buộc phải thực hiện). Theo đó, sẽ không có VPHC nếu không có hành vi trái pháp luật xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước. Trong lĩnh vực văn hóa thì chủ thể của hành vi VPHC đó có thể là doanh nghiệp hoặc không phải là doanh nghiệp. Ví dụ: Trong lĩnh vực kinh doanh karaoke hoặc lễ hội thì chủ thể của hành vi VPHC còn có thể là một tổ chức hay cá nhân.

Hai là, VPHC là hành vi có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hành chính thực hiện. Lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất trong mặt chủ quan, thể hiện ý chí của người thực hiện. Lỗi ở đây có thể là cố ý hoặc vô ý. Trong đó xác định rõ ràng là: Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ chủ thể nhận thức được tính chất nguy hại của hành vi, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn điều đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở chỗ chủ thể không nhận thức được tính chất nguy hại của hành vi mặc dù có thể hoặc cần phải nhận thức được hoặc nhận thức được nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hậu quả xảy ra.

 

Ba là, VPHC phải bị xử lý hành chính theo quy định của pháp luật. Luật xử lý VPHC 2012 đặt ra khung pháp lý chung nhất cho việc xử lý VPHC của chủ thể. Trong đó, Luật này đặt ra nguyên tắc xử lý vi phạm; các biện pháp xử lý VPHC áp dụng đối với các chủ thể vi phạm; các đối tượng bị xử lý VPHC; Tiếp theo đó, đến năm 2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá và quảng cáo. Trong đó, quy định chi tiết các vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục đối với từng hoạt động văn hoá cụ thể.

* Tác hại của vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa

Tất cả các hành vi VPHC trong các lĩnh vực đều có ảnh hưởng đến xã hội. Những VPHC trong các lĩnh vực khác nhau thì có ảnh hưởng đến xã hội ở một mức khác nhau. Đối với VPHC trong lĩnh vực văn hóa thì gây ra những tác hại như sau:

Thứ nhất, VPHC trong lĩnh vực văn hóa làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, phá vỡ cảnh quan, môi trường đô thị, thuần phong mỹ tục và các quy tắc ứng sự trong cộng đồng xã hội.

Thứ hai, VPHC trong lĩnh vực văn hóa làm cho nhân dân mất dần lòng tin vào Nhà nước, vào Đảng, chính quyền. Làm cho các thế lực thù địch, các thế lực chống phá Nhà nước có thể lợi dụng để lôi kéo người dân tham gia chống đối chính quyền.

Thứ ba, VPHC trong lĩnh vực văn hóa còn làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người dân. Ví dụ: Nếu người dân đến hát karaoke tại các cơ sở kinh doanh vi phạm về phòng cháy chữa cháy, an ninh trật tự không đảm bảo, sử dụng các vật liệu trong phòng hát dễ cháy nổ, phòng hát không đảm bảo theo quy định, không đủ điều kiện để cơ quan chức năng cấp phép hoạt động kinh doanh. Hoặc người dân tiêu thụ phải những sản phẩm do quảng cáo không đúng sự thật, không đảm bảo về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng không có tem mác, nhãn hiệu...

Thứ tư, VPHC trong lĩnh vực văn hóa còn làm cho Nhà nước không thu được thuế đầy đủ, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội.

Thứ năm, VPHC trong lĩnh vực văn hóa làm giảm uy tín, hình ảnh của tổ chức và cá nhân nói riêng và của cả xã hội nói chung. Làm cho đạo đức con người bị tha hóa, xuống cấp dẫn đến cuộc sống của gia đình, xã hội bị đảo lộn.

* Đặc trưng của vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa

 

VPHC trong lĩnh vực văn hóa tạo nên sự khó chịu và phản cảm đối với công chúng. Mặt khác cũng ảnh hưởng đến những người, những hộ dân sinh sống xung quanh.

Ví dụ: Trong biểu diễn nghệ thuật, các ca sỹ sử dụng trang phục không phù hợp với mục đích, nội dung, thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam. Dán sản phẩm quảng cáo lên các cột điện, trụ điện đè lên chỗ đã được Đoàn thanh niên tổ chức vẽ hoa, phong cảnh đẹp để tăng thêm cảnh quan sạch đẹp cho đô thị (hành vi này đã bị xử phạt VPHC với mức phạt 20.000.000 đồng vào tháng 6 năm 2020 tại Thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

* Các loại của vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa:

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa được quy định trong Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 như sau:

Vi phạm quy định về điện ảnh: Đó là những vi phạm quy định về sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim, về lưu chiểu, lưu trữ, nhân bản, tàng trữ phim và vi phạm quy định về hoạt động cảu văn phòng đại diện của cơp sở điện ảnh. Quy định cụ thể từng hành vi vi phạm tại điều 6 đến điều 10, mục 1, chương 2 của Nghị định trên [16].

Vi phạm quy định về hoạt động biểu diễn nghệ thuật: Xác định đó là những vi phạm về quy định biểu diễn nghệ thuật, cuộc thi, liên hoan và các loại hình nghệ thuật biểu diễn thực hiện không đúng thông báo với cơ quan nhà nước có thểm quyền theo quy định tổ chức biểu diễn nghệ thuật, cuộc thi, liên hoan và các loại hình nghệ thuật biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị; phục vụ nội bộ cơ quan và tổ chức. Vi phạm quy định về thi người đẹp, người mẫu như: Hành vi đưa thí sinh ra nước ngoài dự thi người đẹp, người mẫu mà không có giấy phép. Vi phạm quy định về lưu hành bản ghi âm, ghi hình có nội dung nghệ thuật biểu diễn chứa đựng nội dung kích động bạo lực, hình thức biểu diễn hành vi trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc .v.v. [16].

Vi phạm quy định về tổ chức lễ hội, kinh doanh hoạt động karaoke, dịch vụ vũ trường; hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá công cộng: Thắp hương, đốt vàng mã không đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội; Lợi dụng hoạt động lễ hội để trục lợi, tham gia hoạt động mê tín dị đoan trong lễ hội…Kinh doanh karaoke không đảm bảo quy định về thiết kế cửa phòng hát (đặt chốt cửa bên trong), cách âm không đúng quy định, không đảm bảo diện tích phòng hát karaoke và vũ trường theo quy định, kinh doanh dịch vụ karaoke và vũ trường trong khonảng thời gian từ 02 giờ đến 8 giờ mỗi ngày [16].

 

Vi phạm quy định về giấy phép tổ chức hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng như: Tổ chức Lễ hội theo quy định phải báo cáo bằng văn bản đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không báo cáo hoặc có báo cáo nhưng không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng ý mà vẫn tổ chức. Sửa chữa, tẩy xóa làm thay đổi nội dung giấy phép kinh doanh hoạt động karaoke, vũ trường. Kinh doanh hoạt động karaoke, vũ trường không đúng nội dung, không đúng phạm vi quy định trong giấy phép. Cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép hoặc sử dụng giấy phép của tổ chức, cá nhân khác để kinh doanh hoạt động karaoke, vũ trường [16].

Vi phạm về mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm: Tổ chức cuộc thi sáng tác mỹ thuật mà không có văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định, tổ chức triển lãm tác phẩm nhiếp ảnh tại Việ Nam không đúng nội dung ghi trong giấy phép, sửa chữ, ghép tác phẩm nhiếp ảnh sai lệch nội dung của hình ảnh nhằm mục đích xâm phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân, triển lãm tác phẩm hiện vật, tài liệu có nội dung vi phạm nếp sống văn minh, tuyên truyền bạo lực, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội gây hại cho sức khoẻ, huỷ hoại môi trường sinh thái.v.v. [16].

Vi phạm về di sản văn hoá bao gồm các hành vi: Làm hư hại hiện vật trong bảo tàng, di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng hoặc đưa vào danh mục kiểm kê di tích của địa phương; Mua bán trao đổi, vận chuyển trái phép trên lãnh thổ Việt Nam di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử- văn háo, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng hoặc đưa vào danh mục kiểm kê di tích của địa phương; Lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh.

Hành vi vi phạm về thư viện: Vi phạm các quy định cấm trong hoạt động thư viện (đánh tráo, làm hư hỏng tài nguyên thông tin); Không đảm bảo về số lượng bản sách theo quy định trong quá trình hoạt động; Tiếp nhận tài trợ, viện trợ, tặng cho, đóng góp trái với quy định, đối xử không công bằng với người sử dụng thư viện, ứng xử trái với quy tắc ứng xử nghề nghiệp thư viện [16].

Bên cạnh đó còn có các VPHC khác như: Cố tình trì hoãn, kéo dài thời gian thực hiện quyết định xử phạt VPHC. Có thái độ không hợp tác với đoàn thanh tra, kiểm tra. Lấy đủ các lý do để đoàn kiểm tra không thể kiểm tra được các thủ tục hành chính cũng như hoạt động của cơ sở được kiểm tra. Dùng lời nói thiếu tôn trọng, thiếu văn hóa với đoàn kiểm tra. Hoặc có hành vi đưa hối lộ cho đoàn kiểm tra để hòng không bị xử lý VPHC. Hoặc dùng sức ảnh hưởng của các cấp lãnh đạo cấp trên để xin không bị xử lý VPHC.

 

- Các nguyên tắc của xử lý vi phạm hành chính:

Theo Khoản 1 - Điều 3- Luật xử lý VPHC 2012 quy định nguyên tắc xử phạt bao gồm:

Mọi VPHC phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;

Việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;

Việc xử phạt VPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;

Chỉ xử phạt VPHC khi có hành vi VPHC do pháp luật quy định. Một hành vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần.

Nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi VPHC đó.

Một người thực hiện nhiều hành vi VPHC hoặc VPHC nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.

Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC.

Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không VPHC.

Đối với cùng một hành vi VPHC thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

Đối với lĩnh vực văn hóa thì các văn bản quy định xử phạt VPHC gồm: Quốc hội ban hành Luật xử lý VPHC, 2012.

Chính phủ ban hành Nghị định xử phạt VPHC trong lĩnh vực VHTTDL (Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021).

Các Thông tư hướng dẫn thi hành của Bộ VHTTDL để đảm bảo xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa được thực hiện chính xác, nghiêm túc.

Các đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý VPHC là các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.

Việc áp dụng các biện pháp xử lý VPHC trong lĩnh vực văn hóa có thể do các cơ quan khác nhau thực hiện.

Ví dụ: Chủ tịch UBND các cấp, Thanh tra chuyên ngành VHTTDL, Thanh tra Sở Thông tin và Tuyền thông, cơ quan công an). Hiện nay, trình tự thủ tục xử

 

phạt VPHC và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định trong Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh này ban hành năm 2008.

Đối với việc xử lý vi phạm pháp luật của cán bộ công chức thì áp dụng theo trình tự, thủ tục áp dụng chế tài kỷ luật đối với cán bộ, công chức.

Cơ sở pháp lý của xử lý VPHC là VPHC được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (đối với việc xử phạt VPHC) và các quy định pháp luật về đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định trong Pháp lệnh xử lý VPHC và các nghị định của Chính phủ quy định chế độ áp dụng các biện pháp này [16].

Đối với việc xử lý các loại vi phạm pháp luật khác thì cơ sở pháp lý để áp dụng chế tài trách nhiệm pháp lý cũng khác nhau. Ví dụ: Đối với việc xử lý vi phạm pháp luật hình sự thì cơ sở pháp lý là Bộ luật hình sự. Đối với việc xử lý vi phạm pháp luật dân sự thì cơ sở pháp lý chủ yếu là Bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác. Đối với việc xử lý kỷ luật cán bộ công chức thì cơ sở pháp lý là Luật cán bộ chông chức, năm 2019 và các nghị định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.

6.1.3. Vai trò của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa

Trong lĩnh vực văn hóa, vai trò của xử lý VPHC cũng rất quan trọng, đó là:

Thứ nhất, xử lý VPHC có vai trò quan trọng trọng việc bảo vệ các giá trị văn hóa, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, giữ gìn thuần phong, mỹ tục, nhân phẩm, sức khoẻ con người, an toàn xã hội.

Ví dụ: Tại khoản 7, Điều 11 Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 13/9/2021 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo có quy định: Tổ chức biểu diễn tác phẩm có nội dung truyền bá tệ nạn xã hội, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam sẽ bị áp dụng biện pháp đình chỉ hoạt động tổ chức biểu diễn từ 1 tháng đến 3 tháng và bị xử phạt VPHC từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng [16].

Thứ hai, xử lý VPHC trong lĩnh vực văn hóa giúp cho mọi tầng lớp nhân dân “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

Thứ ba, xử lý VPHC trong lĩnh vực văn hóa có tác dụng cảnh tỉnh cho những tổ chức, cá nhân có ý định hay cố tình vi phạm pháp luật. Có tác dụng nâng cao ý thức của người dân khi tham gia các hoạt động văn hóa.

Thứ tư, xử lý VPHC có vai trò trong việc phòng ngừa các vi phạm của các tổ chức và cá nhân. Làm cho cá tổ chức, cá nhân kiềm chế không vi phạm pháp luật.

 

Thứ năm, xử lý VPHC là công cụ hỗ trợ cho công tác QLNN nói chung và quản lý trong lĩnh vực văn hóa nói riêng.

6.2. THẨM QUYỀN, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, BIỆN PHÁP XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA

6.2.1. Chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa

- Chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa. Việc xử lý VPHC trong lĩnh vực văn hóa có thể được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau. Bao gồm: Cơ quan Công an, Chủ tịch UBND các cấp; Thanh tra chuyên ngành VHTTDL, Thanh tra Sở Thông tin và truyền thông…

- Thẩm quyền về công tác xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa.

Theo quy định của Luật xử lý VPHC số 15/2012/QH13 ngày 20/6/2012 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị định số: 38/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật xử lý VPHC thì thẩm quyền xử lý VPHC như sau:

Từ điều 63 đến điều 70, chương 4 của Nghị định số: 38/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thì thẩm quyền phạt tiền của mỗi chức danh phải được quy định cụ thể trong nghị định xử phạt VPHC. Đối với nghị định có nhiều lĩnh vực QLNN, thì thẩm quyền này phải quy định cụ thể đối với từng lĩnh vực.

Trường hợp thẩm quyền phạt tiền của các chức danh: Chủ tịch UBND các cấp, Côn an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Thanh tra chuyên ngành được tính theo tỷ lệ phần trăm mức phạt tiền tối đa của lĩnh vực tương ứng quy định tại mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực (Khoản 1 Điều 24 Luật xử lý VPHC), thì thẩm quyền phạt tiền phải được tính thành mức tiền cụ thể.

Trường hợp nghị định xử phạt VPHC có quy định nhiều chức danh tham gia xử phạt thuộc nhiều lĩnh vực QLNN khác nhau, thì phải quy định rõ thẩm quyền xử phạt của các chức danh đó đối với từng điều khoản cụ thể. Theo Điều 71 chương 4 của Nghị định số: 38/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thì hành vi VPHC phải được quy định tại các nghị định xử phạt VPHC trong lĩnh vực QLNN tương ứng, phù hợp với tính chất vi phạm của hành vi đó.

Trường hợp hành vi VPHC thuộc lĩnh vực này nhưng do tính chất vi phạm đặc thù của hành vi đó, thì có thể quy định và xử phạt trong nghị định xử phạt VPHC thuộc lĩnh vực khác. Trong trường hợp này, hình thức, mức xử phạt quy định phải thống nhất với quy định tại Nghị định xử phạt VPHC của lĩnh vực QLNN tương ứng. Và cũng trong trường hợp này, thì chức danh có thẩm quyền

 

xử phạt trong lĩnh vực QLNN chuyên ngành cũng được xử phạt đối với hành vi có tính chất đặc thù quy định trong nghị định xử phạt VPHC thuộc lĩnh vực khác.

- Nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt VPHC: được quy định theo Điều 52, Luật xử lý VPHC năm 2012, như sau:

Thẩm quyền xử phạt VPHC của những người sau: Chủ tịch UBND các cấp, Côn an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Thanh tra chuyên ngành là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi VPHC của cá nhân; trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền xử phạt cá nhân và được xác định theo tỉ lệ phần trăm quy định tại Luật xử lý VPHC đối với chức danh đó.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt VPHC trong các lĩnh vực QLNN ở địa phương.

Chủ tịch UBND các cấp, Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt VPHC thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý.

Trong trường hợp VPHC thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt VPHC do người thụ lý đầu tiên thực hiện.

Trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi VPHC thì thẩm quyền xử phạt VPHC được xác định theo nguyên tắc sau đây:

Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện VPHC bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt VPHC thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó.

Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện VPHC bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt VPHC thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt.

Nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt VPHC của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.

6.2.2. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa

Xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa bao gồm các mức sau: Phạt cảnh cáo, phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm để đảm bảo xử phạt VPHC.

 

Nhưng trong lĩnh vực văn hóa thì mức xử phạt cảnh cáo; phạt tiền thường được xem là hình thức xử phạt chính. Hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm để đảm bảo xử phạt VPHC đôi lúc cũng được áp dụng đối với một số trường hợp các tổ chức, cá nhân có thái độ, tinh thần không hợp tác với đoàn thanh tra, kiểm tra.

Trong xử lý VPHC thì cá nhân, tổ chức chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính; và có thể bị áp dụng một hay nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Kèm theo hình thức xử phạt chính. Cụ thể như sau:

Về hình phạt cảnh cáo: Cảnh cáo là hình thức áp dụng xử phạt chính khi xử lý hành vi VPHC. Theo quy định trên hình thức xử phạt cảnh cáo có thể được áp dụng kèm theo với các hình phạt bổ sung khác tùy theo trường hợp cụ thể như: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật VPHC, phương tiện được sử dụng để VPHC và trục xuất. Theo Điều 22 Luật xử lý VPHC năm 2012 quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.”

Về hình thức xử phạt hành chính là phạt tiền: Hình thức phạt tiền được quy định tại Điều 23 và 24 của Luật xử lý VPHC năm 2012 như sau:

Mức phạt tiền trong xử phạt VPHC từ 50.000 đồng đến 1 tỷ đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2 tỷ đồng đối với tổ chức. Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực thuế; đo lường; sở hữu trí tuệ; an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; chứng khoán; hạn chế cạnh tranh theo quy định tại các luật tương ứng.

Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi VPHC là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.

Đối với từng lĩnh vực cụ thể có mức tiền phạt tối đa khác nhau. Ví dụ: Mức phạt tiền tối đa với cá nhân trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch là 50.000.000 đồng. Trong lĩnh vực quảng cáo là 100.000.000 đồng.

 

Thẩm quyền xử phạt đối với tổ chức gấp 2 lần đối với cá nhân. Về hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn:

Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC trong các trường hợp sau: Đình chỉ một phần hoạt động gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép; Đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc hoạt động khác mà theo quy định của pháp luật không phải có giấy phép và hoạt động đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường và trật tự, an toàn xã hội.

Thời hạn xử phạt từ 01 tháng đến 24 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành. Người có thẩm quyền xử phạt giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi VPHC tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhìn chung hình thức xử phạt cảnh cáo và phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính. Ba hình thức xử phạt còn lại có thể được quy định là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính. Đối với mỗi VPHC, cá nhân, tổ chức VPHC chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính; có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Hình thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính.

6.2.3. Các biện pháp khắc phục hậu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Văn hóa

Ngoài các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b, đ, e, h và i Khoản 1 Điều 28 của Luật xử lý VPHC, hành vi VPHC trong lĩnh vực văn hóa còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

Buộc tiêu hủy tang vật VPHC;

 

Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình văn hóa vi phạm, trả lại đất đã lấn chiếm hoặc chấm dứt việc sử dụng trái phép di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, công trình văn hóa, nghệ thuật và khôi phục lại tình trạng ban đầu;

Buộc trả lại tài liệu thư viện đã đánh tráo hoặc chiếm dụng, trả lại tang vật VPHC;

Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC. Buộc xin lỗi tổ chức, cá nhân.

Buộc công bố công khai thu hồi danh hiệu, giải thưởng đã trao cho cá nhân đạt giải cuộc thi, liên hoan các loại hình nghệ thuật biểu diễn, cuộc thi người đẹp, người mẫu.

Buộc loại bỏ nội dung vi phạm ra khỏi phim đã được phép phổ biến; bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu đã được phép lưu hành; triển lãm, triển lãm mỹ thuật; triển lãm tác phẩm nhiếp ảnh, trại sáng tác điêu khắc, sản phẩm quảng cáo.

Buộc bổ sung số lượng bản sách, cơ sở vật chất, tiện ích thư viện và người làm việc đảm bảo quy định [16].

Tác dụng của các biện pháp khắc phục hậu quả trên như sau: Về biện pháp buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu: Cá nhân, tổ chức VPHC phải khôi phục lại trình trạng ban đầu đã bị thay đổi do VPHC của mình gây ra; nếu cá nhân, tổ chức VPHC không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện (ví dụ: Cá nhân có hành vi làm cháy một gian thờ trong khu vực lễ hội do hành vi đốt vàng mã không đúng nơi quy định thì buộc phải có trách nhiệm khôi phục lại gian thờ trong khu vực Lễ hội, khôi phục lại tình trạng ban đầu do lỗi chủ quan của mình gây ra chính là VPHC gây ra). Về biện pháp buộc tháo dỡ công trình, phần công trình văn hóa vi phạm, trả lại đất đã lấn chiếm hoặc chấm dứt việc sử dụng trái phép di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, công trình văn hóa, nghệ thuật. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm có thái độ không hợp tác thì sẽ bị cưỡng chế thi hành (Ví dụ: Cá nhân, tổ chức xây dựng công trình nhà ở trái phép trong khuôn viên di tích lịch sử đã được nhà nước công nhận di tích lịch sử, di sản văn hóa. Thì buộc cá nhân, tổ chức phải tháo dỡ công trình và bị xử phạt VPHC. Hoặc hành vi cá nhân, tổ chức xây dựng công trình mỹ thuật không có giấy phép). Về biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện VPHC. Tổ chức, cá nhân phải nộp lại tiền thu được do kinh doanh vi phạm các quy định của nhà nước. (ví dụ: Cá nhân, tổ chức cho cá nhân, tổ chức khác sử dụng giấy phép kinh doanh karaoke để kinh doanh karaoke. Ngoài việc bị xử phạt VPHC thì cá nhân,

 

tổ chức đó phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do kinh doanh không có giấy phép theo Điểm b khoản 10 Điều 15 Nghị định số 38/2021/NĐ-CP) [16].

Các chế tài xử phạt VPHC nêu trên đã có tác dụng không nhỏ trong việc răn đe tổ chức, cá nhân VPHC trong lĩnh vực văn hóa. Sự chấn chỉnh nghiêm túc này, được kỳ vọng sẽ tăng cường hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật về văn hóa nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung; đồng thời bảo đảm phù hợp với sự phát triển khách quan của thực tế, dần thanh lọc những biểu hiện không phù hợp, thiếu văn minh, tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.

 



CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Trình bày nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá?

2. Phân tích vai trò của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá?

3. Trình bày những hình thức xử phạt nào áp dụng đối với sai phạm về quản lý nhà nước về văn hoá? Phân biệt giữa vi phạm hành chính và hình sự trong lĩnh vực văn hoá?









CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Vi phạm trong hoạt động tôn giáo - tín ngưỡng có gì đặc biệt?

2. Vì sao hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa rất nhiều nhưng khó phát hiện?

3. Biện pháp phát hiện và xử lý hiệu quả hành vi sản xuất, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trên phương tiện internet?

4. Căn cứ văn bản quy phạm pháp luật đang thực thi, sinh viên tổng hợp những hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức độ xử lý, xử phạt ở một trong các lĩnh vực: Điện ảnh, Báo chí; Xuất bản; Biểu diễn nghệ thuật?

 



TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 6

[1]. Quốc hội, Luật xử lý xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2012.

[2]. Quốc hội, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật cán bộ công chức và luật viên chức, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2019.

[3]. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, 2020.

[4]. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo, 2021.

[5]. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 129/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 sửa đổi một số điều của các nghị định quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực du lịch, thể thao, quyền tác giả, quyền liên quan, văn hoá và quảng cáo, 2021.

 


 

Chương 7

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA


7.1. MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA

7.1.1. Những nhân tố mới tác động đến văn hóa hiện nay

Thực tiễn đã chứng minh từ khi đẩy mạnh việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về văn hoá như: Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 4 khoá VII; Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 5 khoá VIII; Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 9 khoá XI, sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mục tiêu của công cuộc đổi mới đất nước.

Nhận thức về vai trò của văn hoá và chủ thể tạo ra văn hoá là con người ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình và sản phẩm văn hoá phát triển đa dạng. Các hoạt động, sinh hoạt văn hoá được tổ chức rộng khắp, sôi nổi từ trung ương đến địa phương và cơ sở dân cư. Công tác bảo tồn, phát huy, kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống, các di sản văn hoá được quan tâm đẩy mạnh. Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể, di sản thiên nhiên, văn hoá và hỗn hợp thế giới được công nhận, tôn tạo, bảo tồn và gắn kết với phát triển du lịch. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá đã phát huy tác động tích cực, thu hút đa dạng các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển văn hoá. Nhiều chủ trương, biện pháp, phong trào đã được thực hiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng môi trường văn hoá trong cộng đồng dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt được kết quả tích cực.

Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá gắn với Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng nếp sống và văn hoá ứng xử nơi công cộng bước đầu có hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng vào đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong đời sống xã hội.

 

Đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú, đa dạng và cải thiện rõ rệt. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao đã thu hút đông đảo nhân dân than gia. Công tác phát triển và quản lý các hoạt động thông tin, truyền thông được đẩy mạnh. Thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ, đa dạng. Hệ thống báo chí được quy hoạch lại theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng. Công tác xuất bản, in ấn, phát hành được quản lý tốt hơn, đáp ứng yêu cầu lành mạnh của xã hội. Hệ thống các thiết chế văn hoá được đầu tư và từng bước chuyển đổi cơ chế, đổi mới về phương thức hoạt động. Nhiệm vụ xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế được coi trọng và bước đầu phát huy hiệu quả. Việc thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp văn hoá và phát triển thị trường văn hoá đã có chuyển biến tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá, quảng bá các giá trị văn hoá Việt Nam ra thế giới và tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới được thực hiện chủ động, tích cực và đạt nhiều kết quả tốt.

Sự phát triển ngày nay cho thấy, khi đánh giá con người là nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất thì văn hóa trở thành động lực thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất. Năng lực sản xuất sáng tạo của một con người tùy thuộc không chỉ sự giáo dục kinh tế, tri thức sản xuất mà còn liên quan đến phát triển Nhà nước, luật pháp, tín ngưỡng, giá trị đạo đức, lối sống, cảm thụ nghệ thuật... Lôgic của lịch sử là: xã hội có văn hóa cao thì kinh tế phát triển nhanh chóng, khắc phục được tình trạng có tăng trưởng mà không có phát triển. Tính đặc biệt này của hàng hóa văn hóa là lý do giải thích sự cần thiết phải tài trợ cho văn hóa dù dưới danh nghĩa Nhà nước hay các tổ chức kinh tế - xã hội. Nếu buông lỏng quản lý Nhà nước, để mọi hoạt động văn hóa trôi nổi theo quy luật của kinh tế thị trường là tiêu diệt mục tiêu của văn hóa. Muốn quản lý văn hóa có hiệu quả, không chỉ định tính sự tác động của thị trường tới văn hóa mà còn nhất thiết phải định lượng sự tác động tới từng lĩnh vực, từng hoạt động của văn hóa như một trong những căn cứ để xác lập những chính sách văn hóa.

Nhận thức của Đảng, Nhà nước và xã hội về phát triển toàn diện con người được chú trọng. Phát triển toàn diện con người được xác định là trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để xay dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam. Trong đó, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách. Trung ương ương và địa phương đã ban hành các văn bản chỉ đạo, quản lý tạo cơ sở phát lý và điều kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung trí tuệ, công sức xây dựng con người. Tầm vóc và thể lực con người Việt Nam đã được nâng lên. Các chuẩn mực tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của con người thời đại Hồ Chí Minh đã được đưa vào một số văn bản pháp luật, vào quy ước, hương ước làng xã; vào quy chế, quy định, nội dung,

 

quy tắc của cơ quan, đơn vị, tổ chức…Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội, trách nhiệm công dân được đề cao. Các giá trị đạo đức truyền thống được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Các phong trào khởi nghiệp, xây dựng con người, phong trào thiện nguyện gắn với phong trào thi đua yêu nước được đẩy mạnh. Vấn đề thực hiện quyền con người trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội được. coi trọng và đảm bảo bằng pháp luật, trong đó có các quyền về văn hoá của công dân [36].

Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và phát triển và quản lý các hoạt động văn hoá trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, yếu kém đó là:

Văn hoá chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thất ự trở thành nguồn lực, động lực nội sing của sự phát triển bền vững.

Xác định chưa đúng vai trò, vị trí của văn hoá trong xây dựng con người, có chiều hướng nhấn mạnh chức năng giải trí, xem nhẹ chức năng nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ của văn hoá.

Việc đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao (đặc biệt là hệ thống các thiết chế văn hoá).

Quản lý nhà nước về văn hoá, nghệ thuật, thông tin, truyền thông còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về Văn hoá.

Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Một số cơ quan quản lý báo chí còn có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, quản lý mạng xã hội còn bất cập.

Môi trường văn hoá có tình trạng bị xuống cấp, bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống trong gia đình, nhà trường, cơ quan, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư gây bức xúc xã hội kéo dài nhưng chậm được quan tâm giải quyết, ngăn chặn, đẩy lùi.

Sự chênh lệch lớn về đời sống văn hoá tinh thần giữa vùng miền, tộc người tạo khoảng cách cho sự phát triển không đồng đều.

Việc giao lưu, hợp tác để giới thiệu, quảng bá văn háo Việt Nam ra nước ngoài và tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới còn nhiều bất cập, hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trên, cần nhận diện và chỉ ra được năm nguyên nhân chủ quan dưới đây:

 

Thứ nhất, một số cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và một bọ phận nhân dân chưa nhận thức đầy, đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của văn hoá đối với sự phát triển bền vững đất nước. Vị trí, vai trò của văn hoá chưa được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội.

Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chưa thực sự đổi mới, nhất là trong công tác xây dựng, đào tạo, bố trí cán bộ làm công tác văn hoá.

Thứ ba, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về văn hoá còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn.

Thứ tư, chưa phát huy mạnh mẽ được sức mạnh tổng hợp của các chủ thể văn hoá; chưa khơi dậy, khích lệ, động viên được tính tính cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ trí thức, văn ghệ sĩ, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá.

Thứ năm, công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình thành cơ sở lý luận, đúc kết hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam còn chậm, lúng túng, bị động.

Quản lý nhà nước về văn hoá cần xác định rõ một số nguyên nhân chủ quan để kịp thời điều chỉnh, cần sớm được khắc phục để tạo động lực mới cho quá trình thực hiện đúng đường lối của Đảng, giữ vững mục tiêu vì sự phát triển của nền văn hoá tốt đẹp, phát triển bền vững.

7.1.2. Mục tiêu đổi mới quản lý nhà nước về văn hóa

Mục tiêu đổi mới công tác quản lý Nhà nước về văn hóa được xem xét ở hai khía cạnh:

- Một là: mục tiêu mang tính chất định hướng, nhằm hướng đến xây dựng một nền văn hóa như thế nào cho đất nước;

- Hai là: mục tiêu mang tính định lượng nhằm xây dựng, phát triển những hoạt động gì, đến mức độ nào để có sự kế hoạch hóa, đầu tư, điều chỉnh của Nhà nước vào phát triển văn hóa.

* Ở mục tiêu thứ nhất, bất kỳ đất nước nào cũng đề ra để xây dựng một nền văn hóa mới vì con người, vì tiến bộ, nhân đạo, công bằng xã hội ở đất nước mình. Nhưng tính chất của con đường đi tới ấy và tính chất sử dụng đối tượng văn hóa ấy như thế nào thì có sự khác nhau. Hiện nay, Việt Nam xác định mục tiêu xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì ở các nước cũng có mục tiêu xây dựng nền văn hóa thể hiện bản sắc, sức sống, tâm hồn dân tộc của đất nước họ. Nhưng sự định tính giữa các mục tiêu này cũng có sự thể hiện khác nhau về quan điểm hiện đại hóa văn hóa, kế thừa hội nhập văn hóa dân tộc và tiếp thận văn hóa thế giới. Mục tiêu định hướng của văn hóa khó xác định

 

hơn mục tiêu định hướng của kinh tế, nếu mục tiêu của kinh tế được quy vào những mục tiêu cơ bản như nhịp độ phát triển, công ăn việc làm, cán cân thanh toán...thì mục tiêu của văn hóa có tính nhân bản hơn và thường đề cập dựa trên chất lượng cuộc sống tinh thần, sự phá hủy nhân cách, sự bảo tồn văn hóa dân tộc...Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã xác định mục tiêu của đất nước ta là xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, trên cơ sở khơi dậy những nét đẹp trong văn hóa truyền thống của cha ông ta, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đây là một mục tiêu định hướng, làm kim chỉ nam cho công tác xây dựng nền văn hóa tốt đẹp của chúng ta hiện nay.

*Ở mục tiêu thứ hai, mặc dù việc xác định không dễ dàng bởi nó không thể chỉ tính bằng cách diễn đạt số lượng các thiết chế, hiệu quả, năng suất tỷ lệ tăng trưởng hoặc tổng thu thập quốc dân... nhưng các mục tiêu định lượng vẫn có thể xác định được. Đó là những loại mục tiêu hướng vào sự phát triển của các hoạt động văn hóa mà hoạt động văn hóa của một xã hội thì thường được bảo tồn văn hóa, hoạt động xuất nhập văn hóa... Vì vậy, mục tiêu mà quản lý Nhà nước về văn hóa thường đề cập hiện nay chính là những mục tiêu định lượng này. Tuy nhiên, việc xác lập mục tiêu và hướng ưu tiên các mục tiêu cho sự phát triển văn hóa còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và truyền thống của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.

Dù dưới dạng định hướng hay định lượng, các mục tiêu về văn hóa mà công tác quản lý Nhà nước về văn hóa cần nắm vững trong điều kiện hiện nay là:

Phát triển hoạt động sáng tạo văn hóa nhằm tạo ra được những giá trị và sản phẩm văn hóa nghệ thuật có chất lượng cao.

Nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy những tài sản văn hóa nghệ thuật của dân tộc.

Phát triển văn hóa ở cơ sở dân cư nhằm đảm bảo thu hút đông đảo quần chúng tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa nghệ thuật đảm bảo cho sự công bằng dân chủ trên lĩnh vực này.

Phát triển sự xuất, nhập những giá trị và sản phẩm văn hóa nghệ thuật nhằm tăng cường hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế làm giàu cho văn hóa dân tộc và giới thiệu văn hóa dân tộc mình vào cộng đồng thế giới.

Phát triển hệ thống cơ quan sản xuất, bảo quản và phân phối những giá trị văn hóa thông tin nghệ thuật một cách hợp lý, ngày càng hiện đại va có hiệu quả cao.

 

Phát triển đội ngũ trí thức, nghệ sĩ, cán bộ văn hóa một cách đồng bộ, có tầm cỡ và có trình độ cao.

Đảm bảo ngân sách, điều kiện vật chất và điều kiện pháp lý cho sự phát triển văn hóa nghệ thuật.

7.1.3. Yêu cầu đổi mới quản lý Nhà nước về văn hóa

Hơn bất cứ lĩnh vực nào, văn hóa là lĩnh vực yêu cầu có sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước. Quản lý Nhà nước về văn hóa là thể hiện quyền lực của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, quyền lực đó bao gồm:

Định hướng hoạt động văn hóa;

Xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động văn hóa;

Tổ chức điều hành các thiết chế, các tổ chức văn hóa hoạt động theo các chương trình kế hoạch quốc gia;

Xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa;

Tổ chức kiểm tra, thanh tra hoạt động văn hóa.

Trong điều kiện xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện nay, công tác quản lý Nhà nước về văn hóa phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:

Thứ nhất, xác định rõ đối tượng thuộc phạm vi văn hóa mà Nhà nước cần phải quản lý, yếu tố văn hóa có thể quản lý được và cần quản lý là đời sống văn hóa, hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa. Nhà nước đảm nhiệm một phần quan trọng trực tiếp quản lý những công trình văn hóa (công trình lịch sử cũng như công trình nghệ thuật) và những cơ sở phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân.

Nhà nước là người đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền của công dân có trong Hiến pháp về văn hóa, điều tiết sự hài hòa cơ cấu văn hóa, lợi ích văn hóa của các nhóm xã hội, các yêu cầu phát triển và sự thỏa mãn nhu cầu văn hóa của toàn xã hội trước các mâu thuẫn, nghịch lý nảy sinh từ sự vận động, phát triển văn hóa. Chấp nhập thị trường văn hóa thì tất yếu phải có kinh doanh văn hóa, nhưng phải xác định cho được những bộ phận nào có thể kinh doanh và kinh doanh là để bù đắp và nuôi dưỡng cho những hoạt động không thể kinh doanh.

Thứ hai, văn hóa thuộc về nhân dân, mọi người dân đều có quyền được hưởng thụ nền văn hóa và có nghĩa vụ đóng góp, bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Trong việc quản lý văn hóa, ngoài hình thức Nhà nước ra, cần thực hiện các hình thức tự quản của nhân dân trong việc bảo vệ và phát triển văn hóa, đảm bảo được tính đa dạng của văn hóa và đáp ứng được nhu cầu văn hóa của nhân dân.

 

Xã hội hóa các hoạt động văn hóa là xu thế phổ biến của bất cứ xã hội nào nhằm tạo ra phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa. Từ đó sẽ hình thành đời sống văn hóa ở cơ sở có chất lượng cao, có môi trường văn hóa lành mạnh. Mặt trận và đoàn thể quần chúng có vai trò rất lớn trong vấn đề này.

Thứ ba, tạo điều kiện cho văn hóa phát triển hài hòa và nhịp nhàng giữa các yếu tố của bản thân văn hóa và trong quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội, khuyến khích và khuynh hướng lành mạnh trong văn hóa phát triển, tạo được thế chủ đạo cho những khuynh hướng theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Tạo cho văn hóa có cơ sở vật chất vững chắc (đầu tư của Nhà nước, đóng góp tự nguyện của nhân dân hoặc Nhà nước và nhân dân cùng làm, lập quỹ bảo trợ văn hóa...)

Thứ tư, xây dựng một cơ chế quản lý văn hóa trên nguyên tắc chặt chẽ nhưng lại rộng rãi, không gò bó, đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, không biến các hội nghề nghiệp thành cơ quan hành chính.

Thứ năm, văn hóa bao gồm nhiều đối tượng ngoài nguyên tắc quản lý chung, cần có những nguyên tắc, quy định thích hợp với từng đối tượng cụ thể, cần có những đạo luật riêng cho từng hoạt động.

Thứ sáu, văn hóa Việt Nam là văn hóa đa dân tộc (54 dân tộc), do đó cần có cơ quan riêng chăm lo việc quản lý văn hóa các vùng có dân tộc thiểu số. Cấp trung ương là Uỷ ban dân tộc, còn cấp cơ sở là Ban dân tộc trực tiếp quản lý văn hoá các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, định cư.

Quản lý Nhà nước về văn hóa trong cơ chế thị trường, đặc biệt dưới tác động của các mạng công nghiệp 4.0, sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp văn hoá là những vấn đề mới cần được nghiên cứu chu đáo, không cầu toàn cũng không tùy tiện.


7.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA

7.2.1. Phương hướng đổi mới quản lý nhà nước về văn hoá

Quan điểm của Đảng đã xác định quá trình xây dựng, phát triển văn hoá Việt Nam phải được đặt trong mối quan hệ với tổng thể phát triển quốc gia; đồng thời quá trình đó chỉ có thể thành công khi huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân.

“Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình ,kế hoạch phát triển. Sự vào cuộc của hệ thống chính trị cùng với sự đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của nhân dân là những nhân tố quyết định tạo ra những chuyển biến của sự nghiệp phát triển văn hoá.” [8,tr.124].

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương xây dựng, phát huy yếu tố văn hoá để văn hoá thực sự là khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

“Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước ” [9, tr.330].

Những định hướng chính trị quan trọng về văn hoá trong phát triển của đất nước và những thành tựu của sự nghiệp đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, những kinh nghiệm được tích luỹ trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá trong suốt thời gian qua đã tạo thế và lực để văn hoá Việt Nam tiếp tục phát triển.

Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu văn hoá đang tạo ra những biến đổi về diện mạo đời sống văn hoá nước ta. Việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội chưa đảm bảo tổng thể, đồng bộ ở các vùng, miền, địa phương theo lợi thế so sánh và phát huy hiệu quả điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cũng như trong những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp trong khi các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và thành quả cách mạng của Việt Nam.

Văn hoá là một lĩnh vực mang tính đặc thù nên việc quản lý nhà nước cũng như tự quản của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, lĩnh vực văn hoá cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi mặt trái của kinh tế thị trường và những tác động tiêu cực, cám dỗ nên thường xuyên xuất hiện những vấn đề, hiện tượng văn hoá mới, phức tạp, không dễ quản lý và giải quyết ngay. Thời cơ và thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề đổi mới về quản lý văn hoá hiện nay. Quản lý văn hoá là vấn đề khó khăn và phức tạp, cần phải được tiến hành nghiên cứu và tổng kết, nhận thức và tìm kiếm giải pháp phù hợp, theo hướng tập trung vào chất lượng, hiệu quả, gắn với phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo môi trường văn hoá dân chủ, hiện đại, nhân văn và tiến bộ.

 

Xác định rõ yêu cầu của phương hướng đổi mới quản lý nhà nước về văn hoá: “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đẩy nhanh việc thể chế hoá, cụ thể hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hoá ” [9, tr.324].

Những quan điểm chỉ đạo cơ bản về phát triển văn hoá của Đảng và Nhà nước là cơ sở phương hướng hoạt động đổi mới quản lý Nhà nước về văn hoá hiện nay bao gồm:

Thứ nhất, Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan điểm này khẳng định vai trò của văn hoá trong phát triển bền vững đất nước.

Thứ hai, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này xác định định hướng phát triển văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, phát triển văn hoá vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hoá. Trong xây dựng văn hoá, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Quan điểm này xác định trọng tâm cốt lõi của phát triển văn hoá là phát triển con người, đặc biệt là xây dựng nhân cách con người, đạo đức là yếu tố cốt lõi [37].

Thứ tư, xây dựng đồng bộ môi trường văn hoá, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hoà giữa kinh tế và văn hoá; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hoá và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này nhấn mạnh yêu cầu phát triển văn hoá và con người trong các mối quan hệ xã hội và kinh tế.

Thứ năm, Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này khẳng định vai trò quan trọng của chủ thể trong lãnh đạo, quản lý, xây dựng, phát triển văn hoá và con người.

Năm quan điểm chỉ đạo trên đây có quan hệ biện chứng với nhau, tác động hỗ trợ lẫn nhau tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh về phương hướng lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đổi mới quản lý nhà nước về văn hoá.

 

7.2.2. Giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về văn hóa

Hiện nay, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với rất nhiều diễn biến phức tạp, công tác quản lý Nhà nước về văn hóa cần được đổi mới thực hiện theo các nhóm giải pháp sau:

a. Giải pháp thực thi phương thức và nguyên tắc quản lý.

Thứ nhất, đẩy mạnh nhận thức thực tiễn về yêu cầu nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá. Luôn đề cao sự tự giác, tự phản biện, tự chịu trách nhiệm; xây dựng nội dung đánh giá và thực thi đánh giá hàng năm về năng lực quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước và cá nhân người đứng đầu trong thực hiện trọng trách quản lý trên lĩnh vực văn hoá nhằm tạo sự chuyển biến trong toàn hệ thống.

Thứ hai, đảm bảo thực hiện tốt vai trò điều tiết của Nhà nước đối với các cơ quan văn hoá do Nhà nước lập ra, các cơ sở tham gia hoạt động văn hoá do các cá nhân, các nhóm xã hội, hiệp hội, người nước ngoài thành lập.

Khẳng định quyền lực chính trị và trách nhiệm của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát triển văn hoá trên nguyên tắc pháp chế, hướng tới mục tiêu chung là nhằm xây dựng một nền văn hoá hiện đại, dân chủ, tiến bộ, khoa học, nhân văn, giàu bản sắc.

b. Giải pháp thực hiện các nội dung quản lý

Một là, tiếp tục đẩy mạnh thể chế hoá đường lối của Đảng về văn hoá. Trong quản lý Nhà nước về văn hóa, cần quán triệt sâu sắc các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về công tác văn hóa và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Bám sát tình hình thức tiễn của địa phương và cơ sở. Bổ sung sửa đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hoá dựa trên các quy định về quyền văn hoá và các quyền liên quan phù hợp với chuẩn quốc tế và thực tiễn Việt Nam.

Bên cạnh đó, bổ sung và làm rõ các vấn đề chính sách và thực thi chính sách kinh tế trong văn hoá; vấn đề văn hoá trong kinh tế, văn hoá trong chính trị. Xử lý hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá; phát triển văn hoá với ổn định chính trị.

Đồng thời, điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với tính đặc thù của văn hoá. Xây dựng kế hoạch phát triển văn hoá dựa trên chiến lược phát triển tổng thể của đất nước cũng như điều kiện thực tiễn và nhu cầu của từng địa phương.

 

Hai là, xây dựng bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa một cách đồng bộ và phân định rõ chức năng của các cơ quan từ trung ương đến cơ sở, theo tinh thần của cải cách hành chính Nhà nước tránh chồng chéo lên nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về văn hóa. Thay đổi phương thức tổ chức, điều hành quản lý văn hoá. Đối với giải pháp này, cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý văn hoá, gia tăng trách nhiệm quản lý của bộ chủ quản, Uỷ ban nhân dân các cấp và cơ quan tham mưu chuyên môn văn hoá tương ứng.

Nhấn mạnh gia tăng sự tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp văn hoá, các hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp trong lĩnh vực văn hoá. Các cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa cần tích cực, chủ động và có kết hoạch phối hợp hoạt động với các ban ngành khác có liên quan đến công tác văn hóa. Trong việc xây dựng bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa, cần chăm lo, củng cố, kiện toàn và đảm bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy làm công tác văn hóa ở địa phương, đặc biệt là ở cấp xã.

Ba là, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá. Thực thi chính sách trọng dụng nhân tài, coi trọng năng lực chuyên môn trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ quản lý văn hoá. Thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý, phẩm chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong ngành. Có chiến lược đào tạo cán bộ nguồn, chú trọng việc phát hiện và đào tạo tài năng văn hóa nghệ thuật trẻ để xây dựng một đội ngũ cán bộ văn nghệ sĩ có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp của ngành văn hóa. Tham mưu, điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.

Bốn là, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng hiệu quả nguồn lực cho lĩnh vực văn hoá. Đảm bảo công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm các vấn đề văn hoá với từng vùng miền, địa phương; ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy khẩn cấp. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá. Xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi về quỹ đất địa điểm, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo về văn hoá, các thiết chế văn hoá do khu vực tư nhân đầu tư. Tiến hành thẩm định một cách kỹ lưỡng các điều kiện cần thiết trước khi cấp giấy phép cho phép hành nghề kinh doanh dịch vụ văn hóa. Xây dựng cơ chế thích hợp để một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các dịch vụ văn hóa, mặt khác quản lý và giám sát được chặt chẽ các dịch vụ văn hóa này.

 

Năm là, tăng cường công tác thanh tra lĩnh vực văn hoá, làm rõ trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Lấy lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa làm nòng cốt, kết hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, các lực lượng kiểm tra của địa phương và các cơ quan thông tin đại chúng. Tổ chức ra quân một cách đồng bộ và tiến hành kiểm tra, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá. Chủ động nhận diện và đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến ”, “tự chuyển hoá” trong toàn hệ thống chính trị. Ngăn chặn có hiệu quả sự chống phá của các thế lực đối lập trên lĩnh vực văn hoá. Thông qua công tác thanh tra, xoá bỏ tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ hoạt động không đúng nội dung, mục đích đăng ký cho phép hoặc chạy theo cơ chế thị trường. Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát hành chính các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tế và tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc vi phạm nghiêm trọng, tồn đọng, kéo dài lâu ngày.

Sáu là, tăng cường cơ chế phối hợp trong quản lý văn hoá với các bộ, ban ngành khác, các đoàn thể, đặc biệt là với các cơ quan giáo dục, thông tin truyền thông, pháp luật, an ninh, quốc phòng…Phối hợp thực hiện phương châm kết hợp giữ “xây” với “chống” trong đó lấy “xây” là chính. Ra sức tuyên truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức các phong trào “thi đua yêu nước” và phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, làm chuyển biến nhận thức trong toàn xã hội, từ đó có những hành động tích cực đóng góp vào sự phát triển văn hóa theo mục đích quản lý Nhà nước. Đồng thời, thường xuyên tiến hành tổng kết thực tiễn để tìm ra nguyên nhân của những kết quả và tồn tại, rút ra các bài học kinh nghiệm nhằm điều chỉ cho phù hợp với tình hình xã hội đang có những biến đổi hiện nay. Chủ động xử lý hài hoà mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trên lĩnh vực văn hoá.

Đổi mới công tác quản lý Nhà nước về văn hóa theo hướng tăng cường đổi mới các phương thức, nguyên tắc và nội dung quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của đông đảo nhân dân là một yêu cầu khách quan, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ này đòi hỏi cần phải thực hiện đồng bộ có liên quan chặt chẽ và khăng khít với nhau.

 

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Trình bày những nhân tố mới tác động đến mục tiêu đổi mới quản lý nhà nước về văn hoá hiện nay?

2. Sinh viên giải thích tại sao cần đổi mới quản lý nhà nước về văn hoá?

3. Phân tích những giải pháp hữu hiệu về đổi mới quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá? Lấy ví dụ minh hoạ cụ thể?

4. Đánh giá về tác động của công nghiệp văn hoá đối với việc quản lý nhà nước về Văn hoá trên thế giới và Việt Nam hiện nay như thế nào?



CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Phân tích nhận định: “Phát triển văn hóa vừa dễ nhưng cũng vừa khó”? Chứng minh nhận định này đối với trường hợp tỉnh Quảng Ninh?

2. Nhận diện và phân tích mấu chốt quan trọng trong công tác đổi mới quản lý về văn hóa là gì?

3. Sinh viên xây dựng sơ đồ hệ thống các loại hình trong lĩnh vực văn hóa, văn bản quy phạm pháp luật chính trong mỗi loại hình cùng những đơn vị quản lý nhà nước các cấp tương ứng và có những đánh giá cụ thể?

 



TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 7

[1]. V.T.P. Hậu, N.T.Thắng, “Văn hoá và phát triển”. Hà Nội: Nxb Lý luận chính trị, 2021.

[2].Quốc hội, “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hà Nội, Nxb Lao động, 2013.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.

[5]. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nghị quyết số 33/2014/NQ-BCHTW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hoá con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, 2014.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. T. N.Thêm, “Cơ sở văn hoá Việt Nam”. Hà Nội, Nxb Giáo dục, 2009.

[2]. P.V.Tú, “Đại cương về khoa học quản lý”.Hà Nội, Nxb Văn hoá Thông tin, 1999. [3]. H.S. Cường, “Lược sử quản lý văn hoá ở Việt Nam”.Hà Nội, Nxb Văn

hoá thông tin,1998.

[4]. L.H.Lý, D.V.Sáu, Đ.H.Thu, “Giáo trình Quản lý di sản văn hoá với phát triển du lịch ”. Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, 2010.

[5]. P.V.Tú, Tập bài giảng “Quản lý nhà nước về văn hoá”, dùng trong giảng dạy đối với sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hoá, trường đại học Văn hoá Hà Nội, 2013.

[6]. V.T.P.Hậu, “Một số vấn đề quản lý nhà nước về Văn hoá”, Tạp chí Thông tin văn hoá và phát triển,Số 19, tháng 3, 2009.

[7].Quốc hội, “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hà Nội, Nxb Lao động, 2013.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.

[10]. Chính phủ, Nghị định số 79/2017/NĐ-CP, “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch”, ngày 17 tháng 7 năm 2017.

[11]. Bộ VHTTDL, Thông tư số 08/2021/TT-BVHTTDL, “Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở VHTT&DL, Sở VH&TT, Sở DL thuộc UBND cấp tỉnh, phòng VH&TT thuộc UBND cấp huyện”, ngày 8 tháng 9 năm 2021.

[12]. Chính phủ, Nghị định số 107/2020/NĐ-CP, “Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 24/2014 về nghị định chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương”, ngày 14 tháng 9 năm 2020.

[13] Quốc hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật điện ảnh 2009, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2009.

[14] Ban chấp hành TW, ”Báo cáo Kế thừa và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc; Xây dựng, phát triển văn hoá sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; Các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hoá, con người Việt Nam theo tinh

 

thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, ngày 22 tháng 11 năm 2021 tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc.

[15].Chính phủ nước CHXHCNVN, Quyết định số 2151/2013/QĐ-CP ngày 11/11/2013 ban hành Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020 tầm nhìn 2030”, 2013.

[16]. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 38/2021/NĐ-CPngày 29/3/2021 ban hành Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá và quảng cáo, 2021.

[17]. Chính phủ nước CHXHCNVN, “Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020, Quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn”, 2020.

[18]. Chính phủ nước CHXHCNVN, “Nghị định số 23/20219/NĐ-CP ngày 26/02/2019, Nghị định về hoạt động triển lãm”, 2019.

[19]. Bộ VHTTDL, “Thông tư số 01/2018/TT-BVHTTDL ngày 18/01/2018 ban hành Thông tư quy định chi tiết thi hành một số điều tại nghị định số 113/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật”, 2013.

[20]. Bộ VHTTDL, “Thông tư số 08/2020/TT-BVHTTDL ngày 10/11/2020 Thông tư ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật phần mỹ thuật trong xây dựng công trình tượng đài và phù điêu”, 2020.

[21]. Quốc hội, Luật Xuất bản 2012, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2012.

[22] Bộ TTTT, “Thông tư số 01/2020/TT-BTTTT, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản và Nghị định 195/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xuất bản””, 2020.

[23]. Quốc hội, Luật Báo Chí 2016, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2016.

[24]. Chính phủ nước CHXHCNVN, “Nghị định số 119/20220/NĐ-CP ngày 17/10/2020, Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản”, 2020.

[25]. T.M.Tuấn, “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí trong tình hình hiện nay”,2014.[Trực tuyến]. Địa chỉ: http://tapchiquocphongtoandan. [Truy cập ngày 20/12/2021].

[26]. Quốc hội, Luật Quảng Cáo 2012, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia,

 

2012.

 


[27]. Quốc hội, Luật Di sản văn hóa 2001, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2001. [28]. Quốc hội, Luật Di sản văn hóa 2009, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2009.

 

[29]. Bộ VHTTDL, “Thông tư số 18/2010/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2020 Thông quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng”, 2010.

[30]. Quốc hội, Luật Thư viện 2019, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2019. [31]. Quốc hội (2005). Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2010).

[32]. V.T.T.Tú, Tổng quan về quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan - Một số đối chiếu với quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan ở các nước phát triển, chương trình nghiên cứu do Wallonie - Bruxelles International tài trợ, 2010.

[33]. B.N. Hùng. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan ở nước ta hiện nay. (Chuyên đề số 6, Đề tài NCKH về tài sản ảo, Ủy ban Kinh tế Quốc hội, 2009).

[34]. Quốc hội, Luật xử lý xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia, 2012.

[35]. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 129/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 sửa đổi một số điều của các nghị định quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực du lịch, thể thao, quyền tác giả, quyền liên quan, văn hoá và quảng cáo, 2021.

[36]. V.T.P. Hậu, N.T.Thắng, “Văn hoá và phát triển”. Hà Nội: Nxb Lý luận chính trị, 2021.

[37]. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nghị quyết số 33/2014/NQ-BCHTW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hoá con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, 2014.

 

PHỤ LỤC

MỘT SỐ VĂN BẢN LUẬT VỀ VĂN HOÁ

I. VĂN BẢN PHÁP LÝ

[1]. Nghị định số 79/2017/NĐ-CP, “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch”, ngày 17 tháng 7 năm 2017.


CHÍNH PHỦ

------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------

Số: 79/2017/NĐ-CP Hà Nội, ngày 17 tháng 7 năm 2017



NGHỊ ĐỊNH

QUY ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

Chính phủ ban hành Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Điều 1. Vị trí và chức năng

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ

 

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:

1. Trình Chính phủ các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội; dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Bộ đã được phê duyệt và các nghị quyết, dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

2. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn, hàng năm và các chương trình, dự án, công trình quan trọng quốc gia về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

3. Trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

4. Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia; ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy trình, quy phạm, định mức kinh tế - kỹ thuật trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

5. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế hoạch, các dự án, công trình quan trọng quốc gia đã được ban hành hoặc phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và theo dõi tình hình thi hành pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

6. Về di sản văn hóa:

a) Trình cấp có thẩm quyền thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

b) Trình Thủ tướng Chính phủ việc xếp hạng và điều chỉnh khu vực bảo vệ đối với di tích quốc gia đặc biệt; việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận Di sản văn hóa và thiên nhiên tiêu

 

biểu của Việt Nam là Di sản thế giới; việc công nhận bảo vật quốc gia và cho phép đưa bảo vật quốc gia ra nước ngoài để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản và phương án xử lý đối với tài sản là di sản văn hóa theo quy định của pháp luật;

c) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa sau khi được phê duyệt;

d) Thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch tổng thể di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia có quy mô đầu tư lớn;

đ) Thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích quốc gia; thẩm định dự án tu bổ di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia; thẩm định dự án cải tạo, xây dựng công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt theo quy định của pháp luật;

e) Xếp hạng di tích quốc gia, bảo tàng hạng I, điều chỉnh khu vực bảo vệ đối với di tích quốc gia; đưa di sản văn hóa phi vật thể vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; giao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cho bảo tàng nhà nước theo quy định của pháp luật; xác nhận điều kiện đối với việc thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành; thỏa thuận xếp hạng bảo tàng hạng II, hạng III theo quy định của pháp luật;

g) Cấp phép thăm dò, khai quật khảo cổ; cấp phép đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản; cấp phép cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam theo quy định của pháp luật;

h) Hướng dẫn thủ tục đăng ký di vật, cổ vật, điều kiện thành lập và hoạt động của cơ sở giám định cổ vật;

i) Xây dựng cơ chế, chính sách huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;

k) Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

 

7. Về nghệ thuật biểu diễn:

a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu diễn sau khi được phê duyệt;

b) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về biểu diễn, tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu;

c) Quy định về tổ chức thi và liên hoan các loại hình nghệ thuật chuyên nghiệp;

d) Cấp, thu hồi giấy phép về biểu diễn, tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu theo quy định của pháp luật.

8. Về điện ảnh:

a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển ngành điện ảnh sau khi được phê duyệt;

b) Tổ chức liên hoan phim quốc gia và quốc tế tại Việt Nam; chấp thuận tổ chức liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề, những ngày phim nước ngoài tại Việt Nam và những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài;

c) Quản lý việc lưu chiểu, lưu trữ phim và các tư liệu, hình ảnh động được sản xuất trong nước; lưu chiểu, lưu trữ phim nước ngoài được phổ biến, phát hành tại Việt Nam;

d) Cấp, thu hồi giấy phép trong lĩnh vực điện ảnh theo quy định của pháp


 

luật.

 


9. Về mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm:

a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật,

 

nhiếp ảnh, triển lãm và quy hoạch tượng đài, tranh hoành tráng quốc gia sau khi được phê duyệt;

b) Thực hiện quản lý nhà nước về biểu tượng văn hóa quốc gia theo quy định của pháp luật;

 

c) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm văn hóa, nghệ thuật;

d) Hướng dẫn tổ chức và trực tiếp tổ chức trưng bày, triển lãm tác phẩm mỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh;

đ) Hướng dẫn việc tổ chức hoạt động giám định về tác phẩm mỹ thuật, tác phẩm nhiếp ảnh.

10. Về quyền tác giả, quyền liên quan:

a) Hướng dẫn việc thực hiện các văn bản pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan;

b) Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan;

c) Hướng dẫn việc cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm, quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng;

d) Quản lý, khai thác các quyền tác giả đối với tác phẩm, quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng thuộc về sở hữu Nhà nước;

đ) Quản lý hoạt động cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan;

e) Quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả, quyền liên quan; hoạt động đại diện, tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan.

11. Về thư viện:

a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch mạng lưới thư viện sau khi được phê duyệt;

b) Hướng dẫn việc hợp tác, trao đổi sách, báo, tài liệu với nước ngoài và việc liên thông sách, báo, tài liệu giữa các thư viện;

c) Hướng dẫn điều kiện thành lập và hoạt động thư viện; hướng dẫn cấp và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thư viện đối với thư viện tư nhân có

 

phục vụ cộng đồng; hướng dẫn việc bảo quản và tổ chức việc khai thác vốn tài liệu của thư viện;

d) Xây dựng cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực để phát triển sự nghiệp thư viện.

12. Về quảng cáo:

a) Thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo theo quy định của pháp luật;

b) Hướng dẫn việc xây dựng quy hoạch quảng cáo ngoài trời tại địa phương;

c) Tổ chức thẩm định sản phẩm quảng cáo theo quy định của pháp luật.

13. Về văn hóa quần chúng, văn hóa dân tộc và tuyên truyền cổ động:

a) Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quy định về ngày thành lập, ngày truyền thống, ngày hưởng ứng, lễ kỷ niệm, tang lễ và các nghi thức khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ hoặc theo phân công của Chính phủ;

b) Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quy hoạch về thiết chế văn hóa cơ sở sau khi được phê duyệt;

c) Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện nội dung tuyên truyền cổ động về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ, cổ động trực quan;

d) Thực hiện quản lý nhà nước, hướng dẫn việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật;

đ) Quy định việc tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng, tổ chức hoạt động văn hóa; quản lý hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn hóa và vui chơi giải trí nơi công cộng;

e) Quản lý hoạt động lễ hội; hướng dẫn nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, xây dựng lối sống và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; thực hiện các biện pháp phòng ngừa mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu, văn hóa phẩm đồi trụy trái với thuần phong mỹ tục, gây hại cho sức khỏe và hủy hoại môi trường sinh thái;

 

g) Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách về bảo tồn, phát huy, phát triển các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam;

h) Chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách văn hóa dân tộc.

14. Về văn học:

a) Xây dựng và hướng dẫn, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về hoạt động văn học sau khi được phê duyệt;

b) Hướng dẫn tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động văn học;

c) Tổ chức trại sáng tác văn học nghệ thuật.

15. Về công tác gia đình:

a) Hướng dẫn, tổ chức thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam;

b) Hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình;

c) Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống, cách ứng xử trong gia đình;

d) Xây dựng tiêu chí gia đình văn hóa;

đ) Xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; xây dựng và hướng dẫn nhân rộng mô hình gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững.

16. Về thể dục, thể thao cho mọi người:

a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và các chương trình quốc gia phát triển thể dục, thể thao sau khi được phê duyệt;

b) Tổ chức, hướng dẫn việc xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục, thể thao quần chúng; tuyên truyền, hướng dẫn các phương pháp luyện tập thể dục, thể thao; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cộng tác viên thể dục, thể thao cơ sở;

c) Tổ chức điều tra thể chất nhân dân; hướng dẫn, áp dụng và phát triển các môn thể thao dân tộc, các phương pháp rèn luyện sức khỏe truyền thống ở trong và ngoài nước;

 

d) Chỉ đạo tổ chức thi đấu thể thao quần chúng ở cấp quốc gia;

đ) Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hướng dẫn, tổ chức thực hiện về giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường và thể dục, thể thao trong lực lượng vũ trang nhân dân;

e) Hướng dẫn việc đăng ký hoạt động của các câu lạc bộ, cơ sở thể dục, thể thao quần chúng và câu lạc bộ cổ động viên.

17. Về thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp:

a) Trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức đại hội thể dục, thể thao toàn quốc, đại hội thể thao khu vực, châu lục và thế giới;

b) Hướng dẫn, tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, phát triển thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp sau khi được phê duyệt;

c) Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quy định về chế độ, chính sách đối với vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài thể thao;

d) Cho phép tổ chức giải vô địch từng môn thể thao khu vực, châu lục và thế giới tại Việt Nam; tổ chức giải thi đấu vô địch quốc gia, giải trẻ quốc gia hàng năm từng môn thể thao; quy định quản lý các hoạt động thể thao quốc tế tổ chức tại Việt Nam; phê duyệt điều lệ đại hội thể dục, thể thao toàn quốc;

đ) Ban hành tiêu chuẩn và hướng dẫn phong cấp vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài thể thao; công nhận phong cấp của các tổ chức thể thao quốc tế đối với vận động viên, huấn luyện viên và trọng tài thể thao Việt Nam theo quy định của pháp luật;

e) Quy định quản lý việc chuyển nhượng vận động viên, tuyển chọn vận động viên vào các đội tuyển thể thao quốc gia; quy định trình tự, thủ tục thành lập đoàn thể thao quốc gia và đội tuyển thể thao quốc gia từng môn;

g) Hướng dẫn xây dựng chương trình đào tạo, huấn luyện đối với vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài thể thao;

h) Hướng dẫn việc đăng ký hoạt động của các cơ sở thể thao chuyên nghiệp.

 

18. Về tài nguyên du lịch và quy hoạch du lịch:

a) Hướng dẫn và tổ chức điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch;

b) Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch quốc gia, vùng du lịch, địa bàn du lịch trọng điểm, khu du lịch quốc gia sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

19. Về khu du lịch, điểm du lịch:

a) Quyết định công nhận khu du lịch quốc gia; trình Thủ tướng Chính phủ công nhận khu du lịch quốc gia nằm trên địa bàn từ hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên;

b) Hướng dẫn, kiểm tra việc phân loại, công nhận điểm du lịch, khu du lịch;

c) Hướng dẫn việc quản lý khu du lịch quốc gia.

20. Về kinh doanh du lịch và hướng dẫn du lịch:

a) Quản lý, tổ chức thực hiện việc phân cấp, thu hồi giấy phép và các văn bản chứng nhận khác về hoạt động du lịch theo thẩm quyền;

b) Hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ lữ hành, lưu trú du lịch và dịch vụ du lịch khác;

c) Hướng dẫn về điều kiện, thủ tục, hồ sơ cấp, cấp đổi, cấp lại, thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành;

d) Hướng dẫn về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch và thu hồi quyết định công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch;

đ) Tổ chức thực hiện việc thẩm định, công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch và kiểm tra chất lượng cơ sở lưu trú du lịch theo quy định của pháp luật;

e) Hướng dẫn về tiêu chuẩn, mẫu biển hiệu, hồ sơ, trình tự, thủ tục công nhận cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch;

g) Hướng dẫn về điều kiện, thủ tục, hồ sơ cấp, đổi, cấp lại, thu hồi thẻ hướng dẫn viên du lịch.

21. Về xúc tiến du lịch:

 

a) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch quốc gia trong nước và nước ngoài; điều phối các hoạt động xúc tiến du lịch liên vùng, liên địa phương;

b) Hướng dẫn thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan du lịch nước ngoài, tổ chức du lịch quốc tế và khu vực;

c) Xây dựng và hướng dẫn sử dụng, khai thác, quản lý cơ sở dữ liệu du lịch quốc gia,

22. Về hợp tác quốc tế:

a) Trình Chính phủ việc ký, phê duyệt, phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch; tham gia các tổ chức quốc tế theo sự phân công của Chính phủ;

b) Tổ chức đàm phán điều ước quốc tế theo ủy quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế nhân danh Bộ theo quy định của pháp luật;

c) Ký kết, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chương trình dự án quốc tế tài trợ; quyết định tổ chức và cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch thuộc thẩm quyền của Bộ theo quy định của pháp luật;

d) Trình cấp có thẩm quyền việc thành lập Trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và cho phép thành lập cơ sở văn hóa nước ngoài tại Việt Nam;

đ) Quản lý hoạt động của Trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, cơ sở văn hóa của nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật;

e) Tổ chức các sự kiện, hội chợ, hội thảo, triển lãm, chương trình hoạt động đối ngoại về văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch ở quy mô quốc gia và quốc tế nhằm giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa nghệ thuật Việt Nam.

23. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực:

 

a) Hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá theo thẩm quyền việc thực hiện các quy định của pháp luật trong đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch;

b) Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nhân lực ngành văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch và cơ chế, chính sách đặc thù trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ tài năng các lĩnh vực năng khiếu nghệ thuật, thể thao, phụ cấp ngành chuyên biệt đối với giảng viên, giáo viên, huấn luyện viên, học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao và du lịch và hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức thực hiện.

24. Hướng dẫn thực hiện chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sau khi được phê duyệt; trực tiếp tổ chức thực hiện chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đối với các ngành thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.

25. Quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.

26. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đối với các hội, tổ chức phi Chính phủ hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.

27. Cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.

28. Quyết định phê duyệt và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch.

29. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch theo quy định của pháp luật.

 

30. Thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.

31. Thanh tra, kiểm tra; tiếp công dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

32. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đề xuất hoặc quyết định theo thẩm quyền việc thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

33. Tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong các hoạt động văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch.

34. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.

35. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.

36. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và theo quy định của pháp luật.

Điều 3. Cơ cấu tổ chức

1. Vụ Tổ chức cán bộ.

2. Vụ Kế hoạch, Tài chính.

3. Vụ Pháp chế.

4. Vụ Đào tạo.

5. Vụ Thi đua, Khen thưởng.

6. Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

 

7. Vụ Thư viện.

8. Vụ Văn hóa dân tộc.

9. Vụ Gia đình.

10. Văn phòng Bộ.

11. Thanh tra Bộ.

12. Cục Di sản văn hóa.

13. Cục Nghệ thuật biểu diễn.

14. Cục Điện ảnh.

15. Cục Bản quyền tác giả.

16. Cục Văn hóa cơ sở.

17. Cục Hợp tác quốc tế.

18. Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm.

19. Tổng cục Thể dục thể thao.

20. Tổng cục Du lịch.

21. Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.

22. Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.

23. Báo Văn hóa.

24. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.

25. Trung tâm Công nghệ thông tin.

26. Trường Cán bộ quản lý văn hóa, thể thao và du lịch.

Các đơn vị quy định từ khoản 1 đến khoản 21 Điều này là các đơn vị hành chính giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước, các đơn vị quy định từ khoản 22 đến khoản 26 Điều này là các đơn vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Bộ.

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thể dục thể thao, Tổng cục Du lịch và Ban Quản lý Làng Văn hóa -

 

Du lịch các dân tộc Việt Nam và quyết định ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp khác hiện có thuộc Bộ.

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn Vị thuộc Bộ, trừ các đơn vị quy định tại các khoản 19, 20 và 21 Điều này.

Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Pháp chế có 03 phòng; Vụ Kế hoạch, Tài chính có 07 phòng; Thanh tra Bộ có 05 phòng; Văn phòng Bộ có 09 phòng.

Cục Di sản văn hóa, Cục Điện ảnh, Cục Hợp tác quốc tế, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm có văn phòng và 04 phòng.

Cục Nghệ thuật biểu diễn có văn phòng và 05 phòng. Cục Bản quyền tác giả có văn phòng và 06 phòng.

Cục Văn hóa cơ sở có văn phòng và 08 phòng.

Điều 4. Hiệu lực thi hành

1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

2. Nghị định này thay thế Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Điều 5. Trách nhiệm thi hành

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.

 





Nơi nhận:

- Ban Bí thư Trung ương Đảng;

- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;

- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;

- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;

- Văn phòng Tổng Bí thư;

- Văn phòng Chủ tịch nước;

- Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;

- Văn phòng Quốc hội;

- Tòa án nhân dân tối cao;

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

- Kiểm toán nhà nước;

- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;

- Ngân hàng Chính sách xã hội;

- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;

- Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

- Cơ quan trung ương của các đoàn thể;

- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT,

các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;

- Lưu: VT, TCCV (2b).PC TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG



Nguyễn Xuân Phúc


[2]. Thông tư số 08/2021/TT-BVHTTDL, “Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở VHTT&DL, Sở VH&TT, Sở DL thuộc UBND cấp tỉnh, phòng VH&TT thuộc UBND cấp huyện”, ngày 8 tháng 9 năm 2021.


BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO

VÀ DU LỊCH

------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------

Số: 08/2021/TT-BVHTTDL Hà Nội, ngày 08 tháng 09 năm 2021




THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH, SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO, SỞ DU LỊCH THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH; PHÒNG VĂN HÓA VÀ THÔNG

TIN THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

 

Căn cứ Nghị định số 79/2017/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

Căn cứ Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Căn cứ Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Nghị định số 108/2020/NĐ- CP ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ;

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); Phòng Văn hóa và Thông tin thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).

Chương I

SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH, SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ

THAO, SỞ DU LỊCH

Điều 1. Vị trí và chức năng

1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (không bao gồm nội dung quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin); việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

2. Đối với các địa phương có Sở Du lịch thì chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về du lịch do Sở Du lịch thực hiện; chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo do Sở Văn hóa và Thể thao thực hiện, cụ thể như sau:

a) Sở Văn hóa và Thể thao là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo (không bao gồm nội dung quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin); việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

b) Sở Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ

 

chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1, khoản 2 Điều 1 Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch như sau:

1. Về di sản văn hóa:

a) Tổ chức thực hiện quy định, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở địa phương sau khi được phê duyệt;

b) Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể ở địa phương; cấp phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài;

c) Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo vệ phát huy giá trị di sản văn hóa, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử ở địa phương;

d) Tổ chức kiểm kê, lập danh mục, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ở địa phương;

đ) Thẩm định, đề nghị phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch và quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thẩm định dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, báo cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích đối với di tích cấp tỉnh trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; tham gia ý kiến thiết kế bản vẽ thi công bảo quản,

 

tu bổ, phục hồi di tích cấp tỉnh; tham gia ý kiến đối với hồ sơ tu sửa cấp thiết, bảo quản định kỳ di tích hoặc đối tượng kiểm kê di tích; thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích cấp tỉnh ở địa phương có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của di tích; cấp, cấp lại, thu hồi Chứng chỉ hành nghề tu bổ di tích và Giấy chứng nhận hành nghề đối với tổ chức hành nghề tu bổ di tích có trụ sở trên địa bàn;

e) Tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn thủ tục, trình cấp có thẩm quyền cấp giấy phép thăm dò, khai quật khảo cổ, khai quật khẩn cấp; theo dõi, giám sát việc thực hiện nội dung giấy phép khai quật ở địa phương; rà soát, đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều chỉnh quy hoạch khảo cổ;

g) Thẩm định hiện vật và hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận bảo vật quốc gia của bảo tàng cấp tỉnh, ban hoặc trung tâm quản lý di tích, bảo tàng ngoài công lập, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc đang quản lý hợp pháp hiện vật ở địa phương;

h) Tổ chức việc thu nhận, bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do tổ chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở địa phương theo quy định của pháp luật; tổ chức đăng ký và quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp chứng chỉ hành nghề đối với chủ cửa hàng mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp giấy phép làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích quốc gia, di tích cấp tỉnh, bảo tàng cấp tỉnh và sở hữu tư nhân ở địa phương; cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh giám định cổ vật đối với cơ sở kinh doanh giám định có trụ sở trên địa bàn; đề nghị Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép đưa di vật, cổ vật thuộc sở hữu tư nhân ra nước ngoài để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản;

i) Xác nhận điều kiện đối với việc thành lập bảo tàng cấp tỉnh và điều kiện được cấp giấy phép hoạt động đối với bảo tàng ngoài công lập ở địa phương; xem xét, quyết định việc gửi văn bản đề nghị và hồ sơ xếp hạng bảo tàng hạng II, III đối với bảo tàng cấp tỉnh, bảo tàng ngoài công lập đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân

 

cấp tỉnh để tổ chức thẩm định việc xếp hạng bảo tàng; góp ý đề nghị phê duyệt dự án trưng bày bảo tàng cấp tỉnh, dự án trưng bày nhà lưu niệm do địa phương quản lý;

k) Kiểm tra, giám sát và phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiểm tra cơ sở bồi dưỡng và việc tổ chức thực hiện Chương trình bồi dưỡng kiến thức về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh tại địa phương;

l) Là cơ quan thường trực tham mưu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về: Đặt tên, đổi tên đường, phố, quảng trường, công trình công cộng ở địa phương.

2. Về nghệ thuật biểu diễn:

a) Tham mưu, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước hoặc phân cấp, ủy quyền thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, giải quyết thủ tục hành chính đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;

b) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch có liên quan đến các đơn vị nghệ thuật biểu diễn thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo quy định của pháp luật;

c) Cấp văn bản xác nhận cá nhân Việt Nam dự thi người đẹp, người mẫu ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.

3. Về điện ảnh:

a) Tổ chức thực hiện kế hoạch sử dụng ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động chiếu phim tại rạp, chiếu phim lưu động phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội, đối ngoại, phục vụ thiếu nhi, đồng bào dân tộc, miền núi, hải đảo và lực lượng vũ trang;

 

b) Làm nhiệm vụ thường trực Hội đồng thẩm định kịch bản văn học đối với việc sản xuất phim đặt hàng từ ngân sách nhà nước, Hội đồng thẩm định phim cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về điện ảnh;

c) Cấp, thu hồi giấy phép phổ biến phim phóng sự, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình, phim có sử dụng hiệu ứng đặc biệt tác động đến người xem phim do cơ sở điện ảnh thuộc địa phương sản xuất hoặc nhập khẩu;

d) Cấp, thu hồi giấy phép phổ biến phim truyện do cơ sở điện ảnh thuộc địa phương sản xuất hoặc nhập khẩu theo quy định của pháp luật về điện ảnh;

đ) Kiểm tra việc phổ biến phim ở rạp, phim chiếu lưu động, phim phát trên các phương tiện khác tại các điểm hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí công cộng;

e) Hướng dẫn tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quy định về kinh doanh băng đĩa phim và các hoạt động điện ảnh khác ở địa phương.

4. Về mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm:

a) Tổ chức thực hiện các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm thuộc phạm vi quản lý của địa phương;

b) Tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép triển lãm mỹ thuật, cấp giấy phép xây dựng tượng đài, tranh hoành tráng, cấp giấy phép tổ chức trại sáng tác điêu khắc, cấp, thu hồi giấy phép triển lãm tác phẩm nhiếp ảnh tại Việt Nam, cấp, thu hồi giấy phép đưa tác phẩm nhiếp ảnh từ Việt Nam ra nước ngoài triển lãm theo quy định của pháp luật;

c) Cấp giấy phép sao chép tác phẩm mỹ thuật về danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc, lãnh tụ; cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép tổ chức triển lãm do các tổ chức, cá nhân tại địa phương đưa ra nước ngoài không vì mục đích thương mại và do cá nhân nước ngoài tổ chức tại địa phương không vì mục đích thương mại; phê duyệt nội dung tác phẩm mỹ thuật, tác phẩm nhiếp ảnh nhập khẩu nhằm mục đích kinh doanh theo quy định của pháp luật;

d) Tiếp nhận thông báo tổ chức thi sáng tác tác phẩm mỹ thuật thuộc phạm vi quản lý của địa phương; tiếp nhận thông báo tổ chức triển lãm, tạm dừng hoạt

 

động triển lãm do tổ chức, cá nhân tổ chức tại địa phương không vì mục đích thương mại theo quy định của pháp luật;

đ) Quản lý hoạt động mua bán, trưng bày, sao chép tác phẩm mỹ thuật tại địa phương.

5. Về quyền tác giả, quyền liên quan và công nghiệp văn hóa:

a) Tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và cá nhân về quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của pháp luật;

b) Tổ chức thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định về cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm, quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và chế độ nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan ở địa phương;

c) Tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại địa phương; tổ chức rà soát, đề xuất hoặc kiến nghị trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách, giải pháp cần thiết phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại địa phương.

6. Về thư viện:

a) Chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông tham mưu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định việc tiếp nhận xuất bản phẩm tại địa phương của thư viện cấp tỉnh; phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông chuyển giao các xuất bản phẩm lưu chiểu tại địa phương cho thư viện cấp tỉnh theo quy định của pháp luật;

b) Tiếp nhận và có văn bản trả lời đối với thông báo thành lập, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, chấm dứt hoạt động thư viện của thư viện chuyên ngành ở cấp tỉnh, thư viện cấp huyện, thư viện đại học, thư viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài có phục vụ người Việt Nam có trụ sở trên địa bàn theo phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

 

c) Hướng dẫn các thư viện ở địa phương xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

d) Trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách hỗ trợ, thu hút xây dựng và phát triển mạng lưới thư viện tại địa phương, khuyến khích tổ chức, cá nhân duy trì thư viện cộng đồng, thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng tại địa phương; hiện đại hóa thư viện; xây dựng cơ chế phối hợp giữa thư viện với cơ quan, tổ chức để phát triển thư viện và văn hóa đọc trên địa bàn.

7. Về quảng cáo:

a) Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan thẩm định, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài đặt tại địa phương;

b) Tiếp nhận và xử lý hồ sơ thông báo sản phẩm quảng cáo trên bảng quảng cáo, băng - rôn; thông báo tổ chức đoàn người thực hiện quảng cáo tại địa phương;

c) Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc xây dựng, phê duyệt, thực hiện Quy hoạch quảng cáo ngoài trời, báo cáo định kỳ việc quản lý hoạt động quảng cáo tại địa phương;

d) Kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền các hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo theo quy định của pháp luật.

8. Về văn hóa quần chúng, văn hóa dân tộc và tuyên truyền cổ động:

a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch có liên quan đến thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở ở địa phương sau khi được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt;

b) Hướng dẫn xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở ở địa phương theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

 

c) Hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa tại địa phương;

d) Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể chỉ đạo và hướng dẫn phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; chịu trách nhiệm là cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” cấp tỉnh;

đ) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chính sách văn hóa dân tộc, bảo tồn, phát huy, phát triển các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của cộng đồng các dân tộc tại địa phương;

e) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động tuyên truyền cổ động phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quy hoạch có liên quan đến hệ thống cổ động trực quan tại địa phương;

g) Tổ chức thi (hội thi, hội diễn), liên hoan văn nghệ quần chúng, tuyên truyền lưu động, thi sáng tác tranh cổ động, cụm cổ động; cung cấp tài liệu tuyên truyền, tranh cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện thi (hội thi, hội diễn), liên hoan văn nghệ quần chúng, tuyên truyền lưu động và các hoạt động văn hóa khác tại địa phương;

h) Hướng dẫn, kiểm tra, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường; quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, trò chơi điện tử không nối mạng và vui chơi giải trí nơi công cộng tại địa phương theo quy định của pháp luật;

i) Hướng dẫn, kiểm tra việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật;

k) Tham mưu, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quy định về ngày thành lập, ngày truyền thống, ngày hưởng ứng tại địa phương;

 

l) Hướng dẫn tổ chức các lễ hội, quản lý hoạt động lễ hội, thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội.

9. Hướng dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước tại địa phương theo quy định của pháp luật.

10. Về văn học:

a) Tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về hoạt động văn học ở địa phương theo quy định của pháp luật;

b) Hướng dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động văn học ở địa phương theo quy định của pháp luật.

11. Về công tác gia đình:

a) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật liên quan đến công tác gia đình, đảm bảo quyền bình đẳng giới trong gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình;

b) Tham mưu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, kiện toàn đội ngũ nhân lực làm công tác gia đình;

c) Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống, cách ứng xử trong gia đình Việt

Nam;

d) Tổ chức thu thập số liệu, xử lý, báo cáo thông tin về gia đình và phòng,

chống bạo lực gia đình;

đ) Thẩm định, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật;

e) Cấp giấy chứng nhận nghiệp vụ chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, giấy chứng nhận nghiệp vụ tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; cấp thẻ nhân viên chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, thẻ nhân viên tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình.

12. Về thể dục, thể thao:

 

a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy hoạch có liên quan, kế hoạch phát triển thể dục, thể thao ở địa phương sau khi được phê duyệt;

b) Phối hợp với tổ chức xã hội - nghề nghiệp về thể thao tuyên truyền về lợi ích, tác dụng của thể dục, thể thao; vận động mọi người tham gia phát triển phong trào thể dục, thể thao; phổ biến kiến thức, hướng dẫn tập luyện thể dục, thể thao phù hợp với sở thích, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp và tình trạng sức khỏe của người dân;

c) Tổ chức tập huấn chuyên môn đối với người hướng dẫn tập luyện thể thao theo quy định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

d) Xây dựng hệ thống giải thi đấu, kế hoạch thi đấu và chỉ đạo hướng dẫn tổ chức các cuộc thi đấu thể thao cấp tỉnh;

đ) Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước đối với các hoạt động thể thao giải trí tại địa phương;

e) Chủ trì, phối hợp với các tổ chức, cơ quan liên quan tạo điều kiện, hướng dẫn người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, thanh thiếu niên và các đối tượng quần chúng khác tham gia hoạt động thể dục, thể thao;

g) Tổ chức khai thác, bảo tồn, hướng dẫn tập luyện, biểu diễn và thi đấu các môn thể thao dân tộc, trò chơi vận động dân gian, các phương pháp rèn luyện sức khỏe truyền thống; phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan phổ biến các môn thể thao dân tộc ra nước ngoài;

h) Hướng dẫn và tổ chức kiểm tra, đánh giá phong trào thể dục, thể thao quần chúng tại địa phương;

i) Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Công an tỉnh, Bộ đội Biên phòng tỉnh và các cơ quan có liên quan tổ chức thực hiện giáo dục thể chất, hoạt động thể thao trong các cơ sở đào tạo, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, lực lượng vũ trang và các khu chế xuất, khu công nghiệp tại địa phương;

 

k) Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện vận động viên; kế hoạch thi đấu các đội tuyển thể thao của tỉnh sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt;

l) Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn tổ chức Đại hội thể dục thể thao các cấp; phối hợp với các ban, ngành, cơ quan liên quan tổ chức giải thi đấu quốc gia, khu vực và quốc tế sau khi được cấp có thẩm quyền giao và phê duyệt;

m) Tổ chức thực hiện chế độ, chính sách đối với huấn luyện viên, trọng tài, vận động viên của tỉnh trong các hoạt động thi đấu thể dục, thể thao sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt và theo quy định của pháp luật;

n) Tổ chức kiểm tra các điều kiện kinh doanh hoạt động thể thao của câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp, doanh nghiệp và hộ kinh doanh hoạt động thể thao; cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoạt động thể thao cho câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp và doanh nghiệp kinh doanh hoạt động thể thao theo quy định của pháp luật.

13. Về du lịch:

a) Tổ chức thực hiện điều tra, đánh giá, phân loại, xây dựng cơ sở dữ liệu, quản lý, bảo vệ, bảo tồn, khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển tài nguyên du lịch của địa phương;

b) Thực hiện các biện pháp để quản lý môi trường du lịch, khu du lịch, điểm du lịch ở địa phương; tham gia ý kiến đối với các dự án phát triển du lịch trên địa bàn;

c) Nghiên cứu, khảo sát, lựa chọn địa điểm có tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng; đề xuất chính sách hỗ trợ về trang thiết bị cần thiết ban đầu và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng phục vụ khách du lịch cho cá nhân, hộ gia đình trong cộng đồng tham gia cung cấp dịch vụ du lịch; hỗ trợ xúc tiến sản phẩm du lịch cộng đồng;

d) Thẩm định, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận khu du lịch cấp tỉnh và điểm du lịch tại địa phương; tổ chức lập hồ sơ trình Ủy ban

 

nhân dân cấp tỉnh đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận khu du lịch quốc gia và tổ chức công bố sau khi có quyết định công nhận;

đ) Cấp, cấp lại, điều chỉnh, gia hạn, thu hồi Giấy phép thành lập văn phòng đại diện của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài đặt tại địa phương; tiếp nhận thông báo bằng văn bản của đại lý lữ hành về thời điểm bắt đầu hoạt động kinh doanh, địa điểm kinh doanh, thông tin về doanh nghiệp giao đại lý lữ hành; cấp, cấp lại, cấp đổi, thu hồi Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa theo quy định của pháp luật;

e) Thẩm định, công nhận, công bố danh sách cơ sở lưu trú du lịch hạng 01 sao, hạng 02 sao, hạng 03 sao và cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch; tổ chức kiểm tra, giám sát điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ của cơ sở lưu trú du lịch, chất lượng cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch; thu hồi quyết định công nhận trong trường hợp cơ sở lưu trú du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác không duy trì chất lượng theo tiêu chuẩn đã được công nhận;

g) Tiếp nhận thông báo bằng văn bản của cơ sở lưu trú du lịch trước khi đi vào hoạt động hoặc có sự thay đổi về tên, loại hình, quy mô, địa chỉ thông tin về người đại diện theo pháp luật, cam kết đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch theo quy định của pháp luật;

h) Tiếp nhận thông báo bằng văn bản của tổ chức, cá nhân trực tiếp kinh doanh sản phẩm du lịch có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của khách du lịch trước khi bắt đầu kinh doanh và tổ chức kiểm tra, công bố danh mục tổ chức, cá nhân đáp ứng đầy đủ các biện pháp bảo đảm an toàn cho khách du lịch trên Cổng thông tin điện tử của Sở;

i) Cấp, cấp lại, đổi, thu hồi thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế, thẻ hướng dẫn viên du lịch nội địa, thẻ hướng dẫn viên du lịch tại điểm theo quy định của pháp luật; kiểm tra hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và hoạt động hướng dẫn du lịch trên địa bàn;

 

k) Xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch của địa phương phù hợp với chiến lược, kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch quốc gia và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;

l) Tổ chức các khóa cập nhật kiến thức và cấp giấy chứng nhận khóa cập nhật kiến thức cho hướng dẫn viên du lịch nội địa và hướng dẫn viên du lịch quốc tế.

14. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện đối với các tài năng văn hóa nghệ thuật và thể dục, thể thao ở địa phương.

15. Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng thuộc lĩnh vực được giao quản lý theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.

16. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban ban nhân dân cấp tỉnh giao và theo quy định của pháp luật.

Điều 3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch

1. Sở Văn hóa và Thể thao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1, khoản 2 Điều 1 Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định từ khoản 1 đến khoản 12 và khoản 14, khoản 15, khoản 16 Điều 2 Thông tư này.

2. Sở Du lịch thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1, khoản 2 Điều 1 Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 13 và khoản 15, khoản 16 Điều 2 Thông tư này.

 

Chương II

PHÒNG VĂN HÓA VÀ THÔNG TIN

Điều 4. Vị trí và chức năng

1. Phòng Văn hóa và Thông tin là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và theo quy định của pháp luật (việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thông tin và truyền thông của Phòng Văn hóa và Thông tin được quy định tại Thông tư của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông).

2. Phòng Văn hóa và Thông tin có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và công tác của Ủy ban nhân dân cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch, Sở Thông tin và Truyền thông.

Điều 5. Nhiệm vụ và quyền hạn

1. Trình Ủy ban nhân dân cấp huyện: Dự thảo quyết định; quy hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo trung hạn và hàng năm; đề án, chương trình phát triển văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao; dự thảo văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Phòng Văn hóa và Thông tin.

2. Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện dự thảo các văn bản về lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện theo phân công.

3. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý được giao; theo dõi thi hành pháp luật.

4. Hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và nhân dân trên địa bàn huyện thực hiện phong trào văn hóa, văn nghệ; phong trào luyện tập thể dục, thể thao; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; xây dựng và hướng dẫn xét tặng danh hiệu gia đình, thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hóa, đơn vị văn hóa, xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước; bảo vệ và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể; quản lý, bảo vệ, tôn tạo, khai thác, sử dụng hợp lý và phát huy giá trị tài nguyên du lịch, môi trường du lịch, khu du lịch, điểm du lịch trên địa bàn.

5. Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về lễ hội, kinh doanh dịch vụ karaoke, kinh doanh dịch vụ vũ trường, hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

6. Tiếp nhận và có văn bản trả lời đối với thông báo thành lập, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, chấm dứt hoạt động thư viện của thư viện cấp xã, thư viện cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục khác, thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng có trụ sở trên địa bàn theo phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

7. Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở, các cơ sở hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo, điểm vui chơi công cộng thuộc phạm vi quản lý của Phòng Văn hóa và Thông tin trên địa bàn.

8. Giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động trên địa bàn thuộc các lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định của pháp luật.

9. Hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo đối với các chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

10. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo trên địa bàn huyện; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

11. Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Văn hóa và Thông tin.

12. Thực hiện công tác thông tin, thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình hoạt động văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch.

13. Quản lý tổ chức bộ máy, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, thực hiện chế độ tiền lương, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

14. Quản lý và chịu trách nhiệm về tài chính; tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

15. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân cấp huyện giao và theo quy định của pháp luật.

Ngoài các nhiệm vụ trên, Phòng Văn hóa và Thông tin còn thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn về lĩnh vực thông tin, truyền thông theo hướng dẫn tại Thông tư của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.



Chương III

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 6. Hiệu lực thi hành

1. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2021.

2. Thông tư này thay thế Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTTDL- BNV ngày 14 tháng 9 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Phòng Văn hóa và Thông tin thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Điều 7. Trách nhiệm thi hành

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch; chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Văn hóa và Thông tin.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Thông tư này.

Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan, đơn vị, cá nhân phản ánh kịp thời về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp./.




Nơi nhận:

- Thủ tướng Chính phủ; BỘ TRƯỞNG

 


- Các Phó Thủ tướng Chính phủ;

- Văn phòng Trung ương Đảng;

- Văn phòng Chủ tịch nước;

- Văn phòng Quốc hội;

- Văn phòng Chính phủ;

- Tòa án nhân dân tối cao;

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

- Các hộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;

- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;

- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;

- Cục Kiểm tra VBQPPL-Bộ Tư pháp;

- Bộ trưởng, các Thứ trưởng Bộ VHTTDL;

- Các Tổng cục, Cục, Vụ, đơn vị thuộc Bộ VHTTDL;

- Sở VHTTDL, Sở VHTT, Sở DL;

- Công báo; Cổng TTĐT Chính phủ: Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật;

- Cổng TTĐT Bộ VHTTDL;

- Lưu: VT, Vụ TCCB, LH(300).

Nguyễn Văn Hùng

II. BẢNG THỐNG KÊ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT THUỘC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HOÁ HIỆN HÀNH

 





6 Luật Thư viện 2019

7 Luật Sở hữu trí tuệ 2009

8 Luật xử lý xử lý vi phạm hành chính 2012

II NGHỊ ĐỊNH

1 Nghị định số 79: Quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du 2017

lịch

2 Nghị định số 23: Nghị định về hoạt động triển lãm. 2019

3 Nghị định số 107: Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 24/2014 về nghị định chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương

2020

4 Nghị định số 38: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá và quảng cáo Chính Phủ

2021

5 Nghị định số 144:  Quy định về hoạt

2020

động nghệ thuật biểu diễn.

6 Nghị định số 119: Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản.


2020

7 Nghị định số 129: Sửa đổi một số điều của các nghị định quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực du lịch, thể thao, quyền tác giả, quyền liên quan, văn hoá và quảng cáo.

2021

III THÔNG T

1 Thông tư số 08: Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở VHTT&DL, Sở VH&TT, Sở DL thuộc UBND cấp tỉnh, phòng VH&TT thuộc

UBND cấp huyện

Bộ Văn hoá – Thể thao và du lịch

202

2 Thông tư số 01: Quy định chi tiết thi hành một số điều tại nghị định số 113/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật


3 Thông tư số 08: Ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật phần mỹ thuật trong xây dựng công trình tượng đài và phù điêu”, 2020.

Thông tư số 18: Thông quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng

2016

5 Thông tư số 01: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản và Nghị định 195/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xuất bản


(Tài liệu lưu hành nội bộ)

Dùng cho ngành đào tạo: Quản lý văn hóá


 






































MÃ SỐ: TL – 609017– 2022

 


văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn